Khổng Tử tuy không có đóng
góp quan trọng nào về mặt tư tưởng nhưng lại có ảnh hưởng lớn trên sự phát triển
của Nho Giáo, v́ thế mà người ta đă gọi Nho Giáo là Khổng Giáo. Một cách gián tiếp
Khổng Tử đă góp phần quyết định làm cho tư tưởng Nho Giáo bế tắc và không đổi
mới được với thời gian. Đến lượt nó, Nho Giáo đă khiến các xă hội á Đông thuộc
văn hóa Trung Hoa dẫm chân tại chỗ trong hơn hai ngàn năm.
Tôi có viết một bài báo phê phán Khổng Giáo và đă nhận được một số phản ứng, tán
thành có mà phản đối cũng có. Các vị phản đối thường trách tôi một điều là đem ư
thức thời nay để phê phán người xưa, nghĩa là đặt lầm bối cảnh. Thực ra chính
các vị này làm lẫn lớn về thời gian, họ đem bối cảnh tâm lư và xă hội của thế kỷ
19 để bàn luận về Khổng Tử.
Dù vai tṛ thực sự của ông thế nào, Khổng Tử đă được coi là vị thánh, một vị
thầy của muôn đời (vạn thế sư biểu); cung cách của ông và những lời ông nói được
lấy làm mẫu mực lập thân cho nhiều dân tộc á Đông, trong đó có Việt nam, nên
chúng ta cần hiểu ông. Trước hết là đóng góp của ông đối với Nho Giáo. Đóng góp
này rất lớn, Khổng Tử là người đầu tiên ghi chép lại một cách công phu và toàn
bộ những kiến thức của Nho Giáo. Nhờ ông mà người đương thời có được một cái
nh́n tổng quát về Nho Giáo và có thể học hỏi Nho Giáo một cách dễ dàng hơn hẳn
lúc trước. Tuy vậy ông không đóng góp ǵ cho tư tưởng Nho Giáo, đồng hóa ông với
Nho Giáo cũng sai lầm như coi một giáo sư toán có công biên soạn một số sách
giáo khoa toán là một nhà toán học.
Tại sao Khổng Tử lại được tôn vinh như một vị thánh? Không phải đợi đến khi Hán
Cao Tổ (tức Lưu Bang) sang nước Lỗ lễ mộ Khổng Tử, hay Hán Vũ Đế đưa Nho Giáo
lên làm quốc giáo Khổng Tử mới được tôn vinh. Trước đó đă có vơ số sĩ tử sùng
bái Khổng Tử. Phải h́nh dung bối cảnh thời đó mới hiểu được sự sùng bái Khổng Tử
và đóng góp to lớn cho xă hội của ông.
Khổng Tử lưu lạc khắp nơi, không được vua chúa nào dùng phải quay về cố hương là
nước Lỗ để mở trường dạy học. Nhờ uy tín Khổng Tử đă mở được trường tư đầu tiên
tại Trung Quốc và đó là biến cố vô cùng quan trọng. Trước đó việc đào tạo kẻ sĩ
là của triều đ́nh và chỉ có những người được chọn làm sĩ mới được huấn luỵện để
ra làm quan mà thôi, nhưng làm thế nào để có thể trở thành sĩ nếu không phải đă
sẵn là con quan như chính Khổng Tử? Đám tiểu nhân, hay quần chúng, không có phương
tiện nào để tiến thân cả trừ ra những cơ hội cực kỳ may mắn được các vua chúa đoái
hoài tới. Chính nhờ Khổng Tử mà quần chúng có được một phương tiện để thăng tiến
qua giáo dục. Đây là một cuộc cách mạng văn hóa lớn, thay đổi hẳn tương quan xă
hội, tạo ra một quan hệ lưu thông giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. ở vào
thời đại của Khổng Tử, số phận đám tiểu nhân chỉ là sự đầy đọa mà thôi. Khổng Tử
đă tạo ra gần ba ngàn môn đồ, giúp họ ra khỏi sự đầy đọa đó, họ mang ơn ông và
thờ ông là lẽ tự nhiên. Đến lượt họ cũng mở trường dạy học và cũng truyền bá sự
tôn thờ sư tổ của ḿnh, v́ thế mà Khổng Tử trở thành sư tổ của mọi nho sĩ. Cũng
cần nhạn định rằng chỉ sau khi Khổng Tử mở trường nho và sĩ mới đồng nhất. Trước
ông nho là những người học, sĩ là những nho được chọn để được huấn luỵện. Từ
Khổng Tử trở đi ai muốn học cũng được và cũng có thể được bổ nhiệm ra làm quan.
Khổng Tử đă sát nhập được hai thành phần nho và sĩ và, cần nhắc lại một lần nữa
công lao to lớn này của Khổng Tử, ông cũng đă giảm bớt sự ngăn cách khe khắt
giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Sự nghiệp lớn nhất của Khổng Tử như vậy
là về mặt xă hội. Ông đă góp phần quan trọng trong thay đổi sinh hoạt chính trị
Trung Quốc.
Nhưng phải nói, đây là một đóng góp rất vô t́nh, Khổng Tử không hề muốn xóa bỏ
sự ngăn cách giữa hai giai cấp quân tử và tiểu nhân. Trong nhưng lời giáo huấn
học tṛ, ông phân biệt rơ quân tử và tiểu nhân, như cái đúng và cái sai, như ánh
sáng và bóng tối, sự cao thượng và sự hèn hạ, cái đẹp và cái xấu. Tiểu nhân dưới
mắt Khổng Tử là hạng người không đáng được bất cứ một quan tâm nào, hay bất cứ
một sự nể nang nào. Ông từng nói: H́nh phạt không được dùng cho quan lớn, lễ
nghi không được dùng đối với đám thứ dân (h́nh bất thướng đại phu, lễ bất há thứ
dân). Khổng Tử đă đóng góp khai phóng quần chúng khi tạo ra trường tư, nhưng đó
là điều hoàn toàn ngoài ư muốn của ông.
Một cách tương tự ta cũng có thể so sánh công trạng vô t́nh của Khổng Tử với một
số sự kiện tích cực mà đảng cộng sản vô t́nh tạo ra. Họ khắc nghiệt quá khiến
hàng triệu người bỏ trốn ra nước ngoài, nhờ đó mà Việt nam có một cộng đồng hải
ngoại đáng kể từ sau ngày 30-4-1975. Đây là một sự kiện rất quan trọng và rất có
lợi cho Việt nam, nhưng không phải do đảng cộng sản chủ ư tạo ra, trái lại họ đă
hết sức cấm cản mà không được.
Đảng cộng sản cực lực bài xích và cấm đoán thương mại, nhưng những khó khăn mà
chính sách của họ tạo ra sau ngày 30-4-1975 đă buộc mọi người phải xoay sở để
sống, kết quả là hầu hết mọi gia đ́nh Việt nam đều phải buôn bán một cái ǵ đó.
Người Việt nam v́ thế đă bỏ được phần nào tâm lư làm công ăn lương và chuyển
sang tâm lư buôn bán kinh doanh. Đây cũng là một chuyển biến tâm lư rất đáng
mừng nhưng không do chủ ư.
Khổng Tử xuất thân là một quan lại thu thuế và một thày cúng. Cả hai nghề này đều
tập cho ông thói quen câu nệ thủ tục và h́nh thức. Nhất là nghề cúng tế mà không
những chỉ hành nghề Khổng Tử c̣n say mê từ hồi thơ ấu. Suốt đời Khổng Tử không
thay đổi từ cách ăn, cách mặc, cách đi đứng, cách cư xử, lúc nào ông cũng câu nệ
và qui ước. Sách Luận Ngữ mô tả khá rơ rệt về ông: đồ ăn phải nấu thật chín, món
ăn phải đúng mùa, phân lượng rau và thịt không thay đổi, chỉ có rượu là ông uống
không đo lường, dù không khi nào say, đi dự tiệc th́ kính cẩn đứng lên khi đồ ăn
được đem ra, nhưng khi nhận quà tặng của bằng hữu th́ chỉ nghiêng ḿnh chào nếu
là quà để dùng cho cúng tế; về y phục th́ từ chối một số màu sắc, quần áo mùa đông
và mùa hè có kiểu riêng, lễ phục th́ cánh tay mặt phải dài hơn cánh tay trái,
quần áo ngủ phải dài hơn quần áo ban ngày nửa thước; nằm nghiêng, không nói lúc
nằm, không ngồi trên một chiếc chiếu trải không ngay ngắn, ngồi trên xe th́ ngồi
thẳng không nh́n về đàng sau; không nói nhanh và không dùng ngón tay để chỉ một
vật ǵ. Trong triều đ́nh cung cách của Khổng Tử thay đổi tùy người. Đối với các
quan cấp dưới th́ cứng cỏi, đối với các quan cấp cao th́ uyển chuyển. Khi đưa
khách vào yết kiến th́ tỏ thái độ bối rối, rồi chắp tay và quay sang khách sau
đó dang tay mà giới thiệu với vua. Sau buổi yết kiến khi khách ra về th́ hô lên:
Khách không quay lại nữa. Khi đi sứ gặp vua nước khác th́ tỏ vẻ ân cần, kinh sợ.
Tóm lại, tất cả đều theo một nghi thức được qui định một cách rất chi tiết từ
trước. Đó là chân dung của một con người cực kỳ qui ước, hoàn toàn không tùy cơ
ứng biến và không sáng tạo.
Khổng Tử được coi là một người cố đức lớn. Chữ đức vào thời đại đó phải được
hiểu là làm đúng nghi lễ chứ không phải là có ḷng tốt. Không thấy có sách nào
ghi chép Khổng Tử giúp đỡ người nghèo khổ hay gặp khó khăn, hoạn nạn. Tuy vậy
ông dạy học tṛ nên cư xử trung thực, giữ tín nghĩa với bằng hữu, phải phụng dương
cha mẹ, giúp người già sống yên ổn, yêu trẻ thơ. Tất cả những đức tính đó đều đáng
quí cả nhưng cũng chỉ là những đức tính thông thường đă được nh́n nhận từ lâu.
Khổng Tử đă sống và truyền bá một cuộc sống lương thiện theo tiêu chuẩn lúc đó,
ông là một người đứng đắn nhưng bảo rằng ông có đức lớn th́ không đúng. Ông
không có ḷng thương bao la với cả nhân loại, hay ước vọng cứu đời, cứu người như
Phật Thích Ca, Giê-su Ki-tô, Gandhi hay Mẹ Teresa. Hay như hàng ngàn hàng triệu
người khác qua các thời đại lặn lội vào chốn sỏi đá, rừng sâu đem sự giúp đỡ và
niềm an ủi tới cho những người xấu số. Hay như bao người trên khắp thế giới
trong thời nay chịu giam cầm tù tội để tranh đấu cho quyền làm người. Khổng Tử
là một nhà giáo đứng đắn và có tài, thế thôi. V́ ông đă có công giáo dục nhiều
đệ tử, giúp họ ra khỏi số phận hầm hiu nên họ biết ơn và tôn kính ông. V́ chủ
nghĩa thủ cựu và tôn quân của ông có lợi cho các chế dộ quân chủ mà các vua chúa
về sau đă tôn ông lên làm thánh để làm mẫu mực cho mọi người, nhưng đó chỉ là v́
một mục đích chính trị.
Khổng Tử có thực sự là một người có ḷng nhân đạo không? Chắc chắn là không. Ông
mạt sát những người thứ dân khốn khổ một cách thô bạo. Kẻ tiểu nhân đối với ông
chỉ là đối tượng để khinh bỉ và chà đạp mặc dầu họ không có tội ǵ ngoài tội đă
không may sinh ra vào giai cấp cùng khổ. Nhiều người biện hộ cho Khổng Tử, nói
rằng quân tử và tiểu nhân là những giá trị đạo đức. Nói như vậy là đem bối cảnh
thế kỷ 19 để áp đặt vào thời đại Xuân Thu Chiến Quốc của Khổng Tử và hoàn toàn
sai: Như đă nói, vào giai đoạn đó quân tử và tiểu nhân chỉ là hai thành phần xă
hội phân chia theo tương quan quyền lực và kinh tế mà thôi. Chính bản thân Khổng
Tử không coi quân tử và tiểu nhân là những tiêu chuẩn đạo đức ông từng nói trong
Luận Ngữ. Người quân tử mà có đạo th́ yêu người, đứa tiểu nhân mà có đạo th́ dễ
sai (quân tử học đạo tác ái nhân, tiểu nhân học đạo tạc đi sử giả) hoặc quân tử
có dũng mà không có nghiă th́ làm loạn, tiểu nhân có dũng mà không có nghĩa th́
đi ăn trộm (quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa vi loạn, tiểu nhân hữu dũng nhi vô nghĩa
vi đạo). Sau này chính nhờ những giáo huấn của Khổng Tử mà quân tử được coi là đồng
nghĩa với sự cao thượng và tiểu nhân được coi là đồng nghĩa với sự hèn hạ. Đó chẳng
qua chỉ là sự xấc xược miệt thị những người yếu kém, cũng như sau này người cộng
sản thóa mạ những người không đồng chính kiến với họ là phản động, phản quốc,
v.v... Điều khác giữa cộng sản và Khổng Giáo là đảng cộng sản đă miệt thị những
đối thủ tranh giành quyền lực với họ, trong khi Khổng Tử và các nho sĩ đă miệt
thị những người cùng khổ không hề và cũng không dám chống lại họ. Đó chỉ là một
sự tàn nhẫn thuần túy.
C̣n một điểm khác chưa thấy học giả nào đặt ra khi bàn về ḷng nhân của Khổng Tử.
Ông là một chuyên viên cao cấp về cúng tế và rất say mê cúng tế, sử chép rằng hễ
chỗ nào có tế lễ là đi xem rất chăm chú. Chắc chắn là chính ông cũng cử hành
nhiều buổi tang lễ cho các vua chúa và các nhà quyền quí. Vào thời đó có tục
chôn sống người trong các đám tang quí tộc để đưa đi hầu hạ người chết trong thế
giới bên kia. Măi đến đời Tần Thủy Hoàng (thống nhất và làm hoàng đế Trung Hoa
năm 221 đến năm 210 trước Tây lịch) tục lệ dă man ấy mới bị cấm. Chắc chắn là
Khổng Tử đă chứng kiến nhiều vụ chôn sống người và chính ông đă cử hành nhiều
buổi lễ như vậy nhưng Khổng Tử không những không xúc động mà c̣n cho rằng nghi
lễ của người xưa để lại là hoàn toàn đúng không có ǵ cần sửa đổi. Về điểm này
Tần Thủy Hoàng c̣n nhân đạo hơn ông.
Tài trí của Khổng Tử ra sao? ông có vẻ khá tự tin về học vấn của ḿnh, ông từng
nói: Bảo ta là thánh th́ ta không dám, nhưng ta làm việc thánh không biết chán,
dạy người không biết mỏi (nhược thánh dù nhân tắc ngô khởi cảm, ức vi chi bất
yếm, hối nhân bất quyền), hoặc ta không phải sinh ra đă biết, nhờ thích việc
ngày xưa, có học mà được. Khổng Tử c̣n tin tưởng hơn về tài trị nước của ḿnh,
ông nói: Vua nào mà dùng ta th́ chỉ một năm đă khá, ba năm là thành công . Sự tự
tin này đă không được thực tế xác nhận. Khổng Tử làm quan lớn tại nước Lỗ trong
sáu năm, từ chức Trung Đô Tể lên đến Đại Tư Khấu rồi sau này Nhiếp Tướng Sự nhưng
không thấy nước Lỗ giàu mạnh được bao nhiêu. Ông làm Nhiếp Chính Sự (tướng quốc)
được một năm th́ từ quan và đi lưu lạc. Lư do khiến ông từ quan là v́ vua nước
Lỗ không chia phần thịt cho ông trong lễ Giao. Lư do này thực là nhỏ mọn và làm
cho các nho sĩ đời sau rất phiền ḷng. Chỉ v́ miếng thịt mà bỏ chức tướng quốc
th́ c̣n thể thống ǵ, c̣n ǵ là chí lớn trị quốc, b́nh thiên hạ nữa. V́ vậy họ
cố t́nh biện luận rằng đó chỉ là cái cớ, lư do thực sự khiến Khổng Tử bỏ đi là
v́ Khổng Tử thấy vua không c̣n biết giữ lễ nghĩa nữa. Nhưng đó chỉ là những giả
thuyết được đưa ra để biện hộ cho cái đức của Khổng Tử chứ không dựa vào căn cứ
nào. Người ta chỉ kể được những chuyện vua nước Lỗ say mê xem đám vũ nữ nước Te
sang múa hát, bỏ việc ba ngày không nghị triều, nhưng Khổng Tử đă từng làm quan
cho nước Lỗ sáu năm rồi, sao đến bây giờ mới bỏ đi. Vả lại, theo Luận Ngữ th́
chính Khổng Tử cũng rất say mê đàn hát. Sang nước Tề học đàn ba tháng, không
biết đến miếng thịt (văn thiều tam nguyệt bất tri nhục vị). Lập luận cho rằng
Khổng Tử từ quan bỏ đi v́ vua nước Lỗ say mê vũ nữ càng không đúng v́ sau khi bỏ
Lỗ sang Vệ, Khổng Tử lại bị lai tiếng về một vụ nữ sắc. Theo sách chép th́ vua
nước Vệ có người vợ là Nam Tử, rất đẹp và cũng rất dâm đăng. Khổng Tử muốn được
làm quan nước Vệ nên phải vào yết kiến nàng này và c̣n đi theo xe du ngoạn, v́
thế đă bị dư luận lúc đó chê cười. Khổng Tử cũng không trọng nguyên tắc như người
ta vẫn đề cao ông, bởi v́ trên bước đường bôn ba t́m chủ, có lúc ông định đi
theo pḥ một phản thần là Phất Bật. Bị học tṛ là Tử Lộ chất vấn, ông biện bạch
rằng người trong sạch th́ dẫu có vào chỗ đen tối cũng vẫn trong sạch. Thật là
ngụy biện.
Tại sao Khổng Tử lưu lạc khắp nơi trên mười năm trời xin làm quan mà không vua
chúa nào dùng? Đó là v́ ông hoàn toàn lỗi thời. Lúc đó nhà Chu đă mạt vận lắm
rồi, chẳng c̣n uy tín nào nữa. Các chư hầu dù muốn hay không cũng phải tự quyết
và trong thực tế mọi vua chư hầu đều mơ ước làm minh chủ, nhưng Khổng Tử đi đâu
cũng đề cao nhà Chu. Ông nói: Việc lễ nhạc và chinh phạt phải do Thiên Tử (tức
nhà Chu) khởi xướng, các vua chư hầu mà đặt lễ nhạc và chinh phạt là vô đạo (Thiên
hạ hữu đạo tắc lễ nhạc chinh phạt tự Thiên Tử xuất; thiên hạ vô đạo tắc lễ nhạc
chinh phạt tự chư hầu xuất). Muốn đi pḥ người ta mà lại bài bác người ta như
vậy th́ ai dùng? Khổng Tử cũng chủ trương tập trung mọi quyền lực vào tay vua,
truất bỏ quyền tham gia chính trị của các đại thần (Thiên hạ hữu đạo, tắc chính
bất tại đại thần). Một nhăn quan chính trị như vậy không những đă rất hủ lậu và
thiển cận mà c̣n làm các quan đại thần bất b́nh. Không có ǵ đáng ngạc nhiên khi
họ khuyên các vua đừng nên dùng Khổng Tử. Vả lại nếu kiến thức và tài dạy học
của ông được mọi người đương thời nh́n nhận th́ ngược lại thành tích trị nước
của ông chưa được bảo đảm. Với một lập trường tôn Chu tuyệt đối như vậy tại sao
Khổng Tử không đến thẳng kinh đô nhà Chu không xa nước Lỗ bao nhiêu xin việc mà
lại cứ dai dẳng xin pḥ các chư hầu không c̣n phục nhà Chu nữa? Lư do là v́
triều đ́nh nhà Chu lúc đó rất nghèo. Nhưng Khổng Tử vừa bỏ rơi nhà Chu và chạy
theo các chư hầu lại vừa đ̣i họ phục tùng nhà Chu!
Khổng Tử cũng vô lư như người giữa mùa hè chính ḿnh cũng cởi trần nhưng lại hô
hào mọi người nên mặc đồ thật ấm. Khổng Tử có tâm hồn nghĩa hiệp không? Câu hỏi
này h́nh như chưa ai đặt ra, và đó cũng là một sự kiện đáng lưu ư. Ông thấy nước
nào thịnh th́ t́m đến xin làm quan, thấy nước nào khó khăn th́ bỏ đi, ông không
phải là người để đương đầu với thử thách và vượt qua trở ngại. Quan niệm lập
thân của ông chỉ giản dị là cầu an và cầu vinh. Ông nói: Nước lâm nguy th́ không
nên vào, nước bị loạn th́ không nên ở, lúc thiên hạ có đạo lư th́ ta xuất hiện,
lúc không có th́ ta lên ở ẩn (nguy bằng bất nhập, loạn bằng bất cư, thiên hạ hữu
đạo tác kiến, thiên hạ vô đạo tắc ẩn). Khổng Tử xứng đáng được tôn làm ông tổ
của tị nạn kinh tế. Cái triết lư ở ẩn, tránh khó khăn và gian nguy của ông, về
bản chất là một thái độ thấp hèn, đă trở thành một thứ đạo lư cho nho sĩ về sau.
Tại nước ta vào cuối thế ky 19 đầu thế kỷ 20 có ông Nguyễn Khuyến đáng được coi
là tiêu biểu cho cái đạo lư tồi tàn này. Nguyễn Khuyến là nho sĩ danh giá nhất
thời đó, ông đậu đầu cả ba kỳ thi hương, thi hội và thi đ́nh nên được gọi là Tam
Nguyên. Lúc đó ta mất nước về tay người Pháp, Nguyễn Khuyến làm ǵ? Ông rút về ở
ẩn để ngâm vịnh, thỉnh thoảng cũng làm vài bài thơ châm biếm vua quan và xă hội
thời Pháp thuộc. Với một thái độ trốn tránh trách nhiệm như vậy, Nguyễn Khuyến
vẫn được ca tụng như một nhà nho đầy tiết tháo.
Chỗ đúng của Khổng Tử trong tư tưởng cần được nhận định như thế nào?
Xă hội Trung Quốc cho đến đời Khổng Tử đă tiến hóa rất nhiều cả về mặt kỹ thuật
lẫn tư tưởng. Đến đời Xuân Thu th́ các vấn đề xă hội đă trở nên rất phức tạp,
chế độ tập quyền sơ sài vẫn có từ trước đến đời nhà Chu không c̣n hợp thời nữa.
Tổ chức chính trị Trung Quốc lúc đó đă đến lúc cần phải xét lại. Một khuynh
hướng tản quyền tự nhiên dần dần xuất hiện, và bởi v́ nhà Chu không cải tiến ǵ
cả để phù hợp với t́nh thế mới nên dần dần mất quyền lực và ảnh hưởng. Chỉ có
hai con đường, một là chấp nhận sự tản quyền đó và t́m ra một giải pháp mới để
phối hợp các chư hầu; hai là tổ chức lại bộ máy cai trị trung ương để nó có đủ
sức mạnh đè bẹp các chư hầu và cai trị một đất nước đă trở thành rộng lớn, đông
dân hơn và phức tạp hơn. Khổng Tử đă hoàn toàn không nh́n thấy điều đó, ông chủ
trương phục hồi lại quyền hành nhà Chu với y nguyên lề thói cũ. Cho nên ông hoàn
toàn lạc điệu và lỗi thời. Nhận thức chính trị của ông thực là kém cỏi.
Về mặt tư tưởng, các tiến bộ tích lũy từ hơn bốn ngàn năm đă lên tới cao điểm.
Thời Xuân Thu Chiến Quốc là thời cực thịnh tư tưởng Trung Quốc. Ngay sau khi
Khổng Tử qua đời, đoạn cuối của thời Xuân Thu Chiến Quốc đă xuất hiện cả một
phong trào khai phá tư tưởng rộng khắp, với tầm vóc lớn hơn nhiều lần giai đoạn
hoàng kim của tư tưởng Hy Lạp. Các nhà tư tưởng xuất hiện sau Khổng Tử như Tuân
Tử, Mặc Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v,v... Đă vượt rất xa Khổng Tử.
Tư tưởng Trung Hoa cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc vẫn chỉ là Nho Giáo. Chính
sự trưởng thành của Nho Giáo đă làm nở rộ tư tưởng của thời Đông Chu Liệt Quốc.
Tư tưởng, nhất là tư tưởng chính trị Trung Quốc trải qua một thời kỳ xét lại
lộng lẫy và đầy hứa hẹn. Tiếc rằng nó đă khựng lại sau đó v́ trong hai chiều
hướng chuyển biến chính trị, đẩy mạnh tản quyền hoặc tăng cường sức mạnh tập
trung, khuynh hướng thứ hai đă thắng. Nho Giáo được phục hồi và Trung Quốc đă
dẫm chân tại chỗ từ đó.
Khổng Tử kém xa, rất xa, các nhà tư tưởng sau ông, nhưng phải nh́n nhận rằng ông
đă có đóng góp quan trọng cho giai đoạn cực thịnh của tư tưởng Trung Hoa vào
cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc. Nhờ trường tư của ông, ông đă đào tạo ra hàng
ngàn sĩ tử và đến lượt họ đă đào tạo ra vô số sĩ tử khác. Các nhà trí thức lỗi
lạc sau này dù vượt xa Khổng Tử và bài bác Khổng Tử cũng đều là những hậu bối
tinh thần của Khổng Tử. Một lần nữa ta nh́n thấy vai tṛ khai phóng của giáo
dục. C̣n về sau, việc phục hồi Nho Giáo cũng như việc tôn thờ Khổng Tử làm thánh
nhân mâu mực muôn đời hoàn toàn không do trách nhiệm của Khổng Tử. Đó chỉ là do
ư đồ của các chế độ quân quyền dùng Nho Giáo và Khổng Tử để cũng cố nền tảng của
họ. Ông chỉ là nạn nhân của một khai thác chính trị.
Khổng Tử là một nhà giáo có tài và một nhà biên soạn sách có tài. Ông nghèo về
t́nh cảm, kém về tư tưởng và nhận thức xă hội. Toàn bộ quan điểm chính trị và
triết học của ông đều lỗi thời ngay cả vào lúc đó Nhưng ông nghĩ như thế và phát
biểu như thế, đó là quyền của ông, ông không thể tiên đoán được những lạm dụng
về sau.
|