Di sản Xuân Thu Chiến Quốc

 

Có thể nói lịch sử của nước ta thực sự bắt đầu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Giai đoạn này tương ứng với thời các vua Hùng mở nước. Theo huyền sử th́ nguồn gốc của chúng ta cũng bắt đầu từ vua Thần Nông bên Trung Quốc. Huyền sử chỉ có một mức độ chính xác rất tương đối nhưng ít nhất nó nói lên một sự kiện, đó là người Việt nam và người Trung Hoa có cùng một cội nguồn. Chắc chắn là cũng đă có những người tiền sử sinh sống trên đất nước ta từ trước và đă ḥa nhập với người di dân từ phương Bắc xuống vào giai đoạn này, họ đông đảo hơn nhưng thành tố phương Bắc là chế ngự. Ngày nay hầu hết các họ của chúng ta cũng là những họ Trung Quốc. Như vậy giai đoạn từ Xuân Thu Chiến Quốc trở về trước có thể coi là lịch sử chung của cả hai dân tộc trước khi hai quốc gia riêng biệt được h́nh thành. Nhưng chúng ta cũng chỉ mới được độc lập không được bao lâu th́ lại bị sát nhập vào Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Hơn nữa, một quốc gia không phải chỉ là lănh thổ và con người mà c̣n là một nền văn hóa, mà văn hóa của ta th́ chủ yếu là văn hóa Khổng Mạnh đă được tổng hợp trong giai đoạn này.
Nếu thời Xuân Thu Chiến Quốc kết thúc một cách khác đi, nghĩa là nó không kết thúc với một chế độ quân chủ chuyên chính tập trung, và với Khổng Giáo được lấy làm quốc giáo độc tôn, th́ số phận và lịch sử của nước ta đă khác hẳn.
Tư tưởng Trung Quốc h́nh thành một cách thực nghiệm với thời gian, đến thời Xuân Thu Chiến Quốc nó đạt tới một mức độ trưởng thành vừa đ̣i hỏi một cố gắng hệ thống hóa vừa cho phép những khai phá lớn khác. Nền văn minh Trung Quốc lúc đó như một cây đă đủ lớn và đến lúc trổ hoa. Cả một phong trào tư tưởng rộ lên như hoa nở mùa xuân. Các sách c̣n lưu giữ được, nhất là bộ truyện Đông Chu Liệt Quốc, mô tả một không khí tưng bừng khai phá tư tưởng. Có những nhà hào phú nuôi cả trăm, ngàn thực khách chỉ để biện luận t́m ra chân lư về vũ trụ, xă hội và con người. Cũng có hàng trăm, hàng ngàn biện sĩ đi khắp các nước chư hầu đề nghị với các vua chúa các lư thuyết trị nước.
Khí thế của phong trào tư tưởng này thật là mạnh mẽ và nhưng thành lựu của nó lại càng lớn hơn. Có thể nói tất cả những triết lư và học thuyết của Trưng Quốc đều xuất hiện trong giai đoạn này. Và cũng có thể nói là mọi khái niệm triết lư và chính trị đều đă được đề cập tới và đẩy khá xa. Ngày nay nói tới tư tưởng thời Xuân Thu Chiến Quốc người ta thường hay nhắc tới Lăo Tử, Mặc Tử, Tuân Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi, Công Tôn Long, v.v... nhưng thực ra các triết gia và lư thuyết gia này không phải là đơn độc, họ chỉ là những phát ngôn viên c̣n được nhớ lại của các trường phái tư tưởng. Thời đó chưa có sự tranh giành tác quyền về tư tưởng.
Trường phái Lăo Tử chẳng hạn đă đưa ra cả một triết thuyết về vũ trụ mà ngay cả trong thời đại khoa học ngày nay người ta cũng không thể đánh giá là ngây ngô. Có thể coi những khai phá của Mặc Tử trong thuyết kiêm ái như là những viên đá đầu tiên cho một chủ nghĩa dân chủ xă hội nhân bản. Mặc Tử, Tuân Tử và Hàn Phi khởi xướng ra chủ trương nhà nước pháp trị. Kiêm ái và pháp trị nếu được phối hợp và phát triển chắc chắn dẫn tới dân chủ. Công Tôn Long đi rất xa về lô-gích trừu tượng, phân tích rất sâu về nguyên ủy và hậu quả (trứng có lông) về sự vật và cách nh́n sự vật (ngựa trắng không phải là ngựa).
Nhưng cả một rừng hoa đó cuối cùng đă không kết trái, hay đều kết trái nhưng trái đă không chín được để sinh ra những hạt giống cho sự sống tiếp tục. Tại sao?
Câu trả lời đầu tiên là, trái với văn minh phương Tây, thời Xuân Thu Chiến Quốc đă có những tiến bộ về tư tưởng mà không có tiến bộ về khoa học thuần túy. Họ đă có những Socrate nhưng không có được những Archimède. Triết lư không có sự chuyên chở của khoa học kỹ thuật th́ không bay bổng lên được và không ăn rễ được vào xă hội.
Giải thích như vậy cũng tạm ổn, nhưng chính sự thiếu vắng khoa học thuần túy cũng cần được giải thích.
Trung Quốc được thành lập trên lưu vực của hai con sông lớn, sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Cả hai con sông này đều là những ḍng sông dũng mănh đem phù sa và sự sung túc lại cho cái nôi đầu tiên của Trung Quốc, nhưng đồng thời cũng là một đe dọa kinh niên cho sự tồn vong của con người. Tới mùa lũ ḍng sông có thể tràn bờ biến ruộng đồng thành biển cả, cuốn đi của cải và sinh mạng. Trong điều kiện như thế, ưu tiên thường trực nếu không muốn nói duy nhất của tập thể là chống lại nước. Các vị vua đầu tiên của Trung Hoa đều là những người có công trị thủy. Vua Thuần nhường ngôi cho vua Vũ v́ ông Vũ có công đắp đê ngăn nước lụt.
Mọi xă hội h́nh thành bên cạnh nhưng ḍng sông lớn với lưu lượng thay đổi đột ngột đều cần những vị vua có uy quyền tuyệt đối để áp đặt những cố gắng tập thể ghê gớm. Không phải là một sự t́nh cờ mà tất cả các chế độ được xây dựng bên cạnh những con sông lớn đều là những xă hội cực kỳ chuyên chế, dù là ở Trung Hoa, Việt nam, Cam-bốt, ấn Độ, Ethiopia, hay Ai Cập... nền tảng của các xă hội cổ xưa này là một khế ước bạo quyền bất thành văn nhưng rất rơ rệt giữa người chủ tể và dân chúng. Người chủ tể phải áp đặt những đ̣i hỏi thật dă man, đôi khi hy sinh cả một phần dân chúng, để đắp và bảo vệ đê điều, nhưng ngược lại chính nhờ những hy sinh kinh khủng đó mà cộng đồng tồn tại được thay v́ bị nước cuốn đi. Các nạn nhân có thể nguyền rủa bạo chúa, nhưng con cháu họ lại mang ơn bạo chúa v́ đă bảo đảm cho họ mùa màng và cuộc sống. Dần dần sự tàn bạo được chấp nhận như một định luật. Khổng Tử thừa hưởng di sản tinh thần của hệ thống xă hội đặt trên khế ước bạo quyền đó. Điều đặc biệt nơi ông là thay v́ nh́n khế ước bạo quân đó như một cái tệ cần thiết ông lại thấy nó toàn thiện, toàn mỹ. Khổng Giáo chủ yếu là cố gắng để chính đáng hóa bạo quyền và nâng sự chấp nhận kiếp sống nô lệ lên hàng một đạo đức tuyệt đối.
Khổng Tử sống trong một giai đoạn chuyển tiếp quan trọng. Với thời gian uy quyền của bạo chúa bị suy giảm v́ hai lư do, một là đê điều tương đối đă ổn vững, công tác chủ yếu chỉ c̣n là giữ ǵn và tu bổ, vai tṛ của bạo chúa không c̣n cần thiết như trước nữa; hai là xă hội ngày càng phát triển, mức sống cao hơn, dân số đông hơn, các nhu cầu mới xuất hiện, nhiều tiểu chủ địa phương xuất hiện và trở thành mạnh. Tới một mức độ chín muồi nào đó nhận thức về xă hội và cách tổ chức xă hội cần được xét lại. Đó là hiện tượng đă xảy ra dưới triều đại nhà Chu. Các sử gia vẫn thường nhận định là nhà Chu suy v́ để mất uy quyền thiên tử, thực ra là v́ xă hội đă tiến hóa và đ̣i hỏi một hệ thống chính trị khác.
Nhà Chu không c̣n uy quyền trấn áp các chư hầu nữa th́ tất nhiên các chư hầu cạnh tranh và cấu xé lẫn nhau. ư hệ độc tôn quân quyền không c̣n hợp thời nữa th́ tất nhiên xuất hiện những suy tư mới.
Thời Đông Chu Liệt Quốc chính là khúc quanh lịch sử vĩ đại đó. Nhưng tập quán chính trị chuyên chính đă kéo dài gần bốn ngàn năm và đă ăn rễ vào tâm lư con người nên các tham vọng chuyên chế dĩ nhiên c̣n rất mạnh và c̣n có chỗ dựa tâm lư mạnh. Phải có một phép mầu ghê gớm các xă hội thiết lập bên các ḍng sông lớn mới lột xác và biến đổi được. Nhưng phép mầu đó đă không xảy ra tại Trung Quốc cũng như nó đă không xảy ra tại mọi nước khác. Người dân đă được điều kiện hóa để chấp nhận sự tàn bạo và như thế khi một chế độ tàn bạo cáo chung nó chỉ nhường chỗ cho một chế độ tàn bạo khác thích nghi hơn với thời đại mới. Giữa hai chuyền hướng bắt buộc phải có cho chế độ nhà Chu, một là chấm dứt khế ước bạo quyền, chính thức hóa sự tản quyền và nới rộng tự do cho dân chúng, hai là, ngược lại, tăng cường tới cực điểm bạo lực của trung ương để khuất phục các chư hầu và đập tan mọi ư đồ chống đối; cuối cùng Trung Quốc đă theo con đường thứ hai. Nhà Chu đă chấm dứt nhường chỗ cho nhà Tần với một bộ máy cai trị lớn hơn và mạnh hơn. Từ nhà Tần trở đi, một hệ thống chính trị khác, hệ thống quân chủ tập quyền và tuyệt đối dựa trên bạo lực không cần thiết đă ra đời thay thế cho hệ thống chính trị quân chủ dựa trên bạo lực cần thiết trước đó.
ở đây cũng cần mở một dấu ngoặc để nói về một sự kiện rất đáng chú ư. Sở dĩ, trong các chư hầu, nhà Tần đă mạnh lên để tiêu diệt các chư hầu khác và gom thâu thiên hạ là v́ đă áp dụng lư thuyết của Hàn Phi, chủ trương xiết chặt về chính trị nhưng cởi mở về kinh tế. Cái gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa ngày nay cũng không khác ǵ về nội dung, nó chỉ là một sự áp dụng lại một lư thuyết đă được đưa ra cách đây 22 thế kỷ. Nhà Tần đă chỉ tồn tại được vài chục năm bởi v́ chính sách độc tài chính trị cởi mở kinh tế đă mau chóng tích lũy mâu thuẫn và đă sụp đổ. Đây là một bài học, lịch sử h́nh như đang diễn lại.
Nhà Hán sau khi đă tiêu diệt nhà Tần đă xiết lại luôn về kinh tế, đem Khổng Giáo làm quốc giáo độc tôn, cấm đoán mọi ư đồ xét lại. Từ đó chế độ chính trị Trung Quốc không c̣n thay đổi nữa và Trung Quốc dẫm chân tại chó hơn hai mươi thế kỷ.
Các xă hội nông nghiệp h́nh thành bên các ḍng sông lớn đều mang một tật nguyền chung của các nền văn minh phù sa là tư tưởng và sáng kiến bị thui chột. Phải hàng ngàn năm mới đắp xong những con đê lớn với những chịu đựng ghê gớm. Cuộc sống đầy đọa và gắn chặt với đất đó đă nhồi nặn ra những con người chỉ quanh năm vất vả với đất để kiếm miếng ăn, dần dần sự thủ cựu và thiển cận biến thành một bản chất, không biết nghĩ và không dám nghĩ.
Chúng ta là một dân tộc như thế. Cả lịch sử lập quốc của ta đă chỉ là lịch sử con đê sông Hồng Hà. Ta hệ lụy với ḍng sông hơn mọi dân tộc khác, đến nỗi gọi quốc gia là nước. Quốc gia của ta chỉ quanh quẩn là đất nước, núi sông, sơn hà. Chúng ta c̣n tật nguyền hơn mọi dân tộc phù sa khác. Trí tuệ của ta thui chột một cách thê thảm. Người Trung Quốc c̣n biết xét lại và đổi mới, dù chỉ là một cách vụn vặt, Khổng Giáo của họ qua các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyễn, Minh, Thanh; người Việt nam chúng ta th́ hoàn toàn không. Người Trung Quốc c̣n biết dùng lịch phương Tây ngay từ đời nhà Minh; ta th́ tới cuối thế kỷ 19 vẫn bám chặt lịch cũ thay đổi đă chỉ đến do sự áp dặt của người Pháp khi ta đă mất chủ quyền. Ta có một bờ biển dài và đẹp, mở thênh thang ra một đại dương hiền ḥa nhưng ta vẫn chỉ sống đời này qua đời khác với đất như một dân tộc lục địa.
Đối với các dân tộc khác, tự do, dân chủ (hay nhân quyền cũng thế v́ đó chỉ là những gốc nh́n khác nhau của cùng một sự kiện là con người được quí trọng, được phát huy hết khả năng của ḿnh, được có ư kiến và sáng kiến) là một phương thức tổ chức xă hội; đối với chúng ta nó c̣n là một liều thuốc trị bệnh tê liệt trí năo. Chúng ta là một bệnh nhân mà tự do là liều thuốc chữa. Chúng ta phải uống thuốc tự do nếu muốn lành bệnh để tranh đua với thế giới.