Những định luật cho một xă hội phát triển ?

 

Cái đầu quả nhiên nhanh hơn đôi chân và hơn cả máy bay phản lực. Qua một vài chục trang giấy, chúng ta đă du hành ngược thời gian, lên đến thời tiền sử rời lại xuôi ḍng về đến hiện tại, sau khi đă thăm viếng những cái nôi đầu tiên của phát triển tại châu Âu và Hoa Kỳ, rồi các nước vừa phát triển tại châu á và châu Mỹ La Tinh.
Chúng ta đă nhận định và cũng đă khảo sát cả những lập luận trái ngược. Đến đây chúng ta có thể rút ra những kết luận. Nếu chúng ta tự so sánh với một nhà khoa học rút ra những định luật sau khi đă quan sát các thí nghiệm, chúng ta cũng có thể rút ra một số định luật cho một xă hội muốn phát triển hay muốn tiếp tục phát triển. Dĩ nhiên, với thái độ khiêm tốn phải có, bởi v́ các định luật trong khoa học nhân văn không chính xác như những định luật trong khoa học vật lư, chúng luôn luôn đ̣i hỏi một ứng dụng sáng tạo phù hợp với môi trường.
Định luật 1: Tất cả mọi thành tố cơ bản của phát triển đều vô h́nh, nằm trong con người và xă hội. Phát triển chủ yếu là một vấn đề tâm lư và văn hóa.
Định luật 2: Dân chủ là nguyên nhân tạo ra phát triển và cũng là môi trường của phát triển. Mức độ dân chủ quyết định giới hạn tối đa của phát triển. Dân chủ càng cao khả năng phát triển càng cao. Không có dân chủ quá đáng.
Định luật 3: Phát triển đ̣i hỏi một đồng thuận dân tộc trong một dự án tương lai chung, phù hợp với quyền lợi của mỗi cá nhân. Hiến pháp và luật pháp thể hiện đồng thuận xây dựng một tương lai chung đó và v́ thế được ổn vững và được coi như nền tảng duy nhất của tổ chức xă hội.
Định luật 4: Phát triển đ̣i hỏi kinh tế phải được tự do vận hành theo qui luật tự nhiên của thị trường thay v́ bị g̣ bó trong một kế hoạch. Chính quyền phải tránh can thiệp và đặt ra nhưng cưỡng chế mâu thuẫn với qui luật của thị trường.
Định luật 5: Các thủ tục hành chánh phải được giảm tới mức tối thiểu cần thiết. Chính quyền tốt nhất là chính quyền nhẹ nhất, nhường không gian tối đa cho xă hội dân sự, cá nhân, ư kiến và sáng kiến.
Định luật 6: Phát triển lành mạnh đ̣i hỏi hủy bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, mọi thế lực ngoài qui định luật pháp, mọi thành kiến và giáo điều, mọi phân biệt và ngăn cách.
Định luật 7: Tự do là tâm hồn, động cơ và sức mạnh của xă hội. Trong một xă hội muốn phát triển mạnh không thể có nhưng ư kiến cấm nêu ra và cũng không thể có đề tài cấm bàn đến.
Định luật 8: Bạo lực phải bị tuyệt đối lên án và hoàn toàn xóa bỏ như một phương thức ứng xử. Mọi mâu thuẫn trong xă hội phải được giải quyết qua đối thoại và thỏa hiệp.
Định luật 9: Vận tốc phát triển tỷ lệ thuận với chỗ đứng dành cho thương mại. Thương mại càng được ưa thích và quí trọng, xă hội phát triển càng nhanh chóng: Thương mại phải được coi là động cơ của mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật, văn hóa, đạo đức.
Định luật 10: Mọi luật và qui định phải phù hợp với tŕnh độ hiểu biết của dân chúng và liên lục thích nghi với bối cảnh xă hội, nhưng luôn luôn phải giản dị, dễ hiểu, dễ tuân thủ cho mọi người và được áp dụng triệt để.
Mười định luật trên đây thực ra là những định luật căn bản. Chúng ta đă bỏ qua những yếu tố khác tuy rất quan trọng nhưng tự nhiên sẽ được khám phá ra khi những định luật căn bản đă được thỏa măn, như sức khỏe, giáo dục, truyền thông, hạn chế dân số, bảo vệ môi trường, v.v...
Sự liệt kê giản lược này dĩ nhiên cần một số ghi chú bổ túc:
Định luật 1 là một khám phá mới. Cho tới một ngày khá gần đây các nhà nghiên cứu, khi giải thích hiện tượng phát triển, đều đề cao vai tṛ của những yếu tố vật chất như tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lư. Max Weber là một trong những nhà tư tưởng hiếm hoi đề cao vai tṛ của tâm lư và văn hóa, nhưng ông lại tập trung lư luận vào châu Âu và dành cho đạo Tin Lành một vai tṛ chủ yếu. Tư tưởng của ông v́ vậy khó có tiếng vọng nơi các xă hội không theo Thiên Chúa Giáo. Chỉ cho tới một ngày rất gần đây, nhờ sự quan sát của các nhà ngoại giao, các chuyên viên trong các chương tŕnh hợp tác phát triển và các phái viên của các tổ chức thiện nguyện, người ta mới ư thức được rằng sự tụt hậu và tŕ trệ là do một cấu trúc tâm lư không thích hợp. Một quốc gia không thể phát triển nếu quyền lực thay v́ được coi là một trách nhiệm lại được nh́n như một phần thưởng, nếu danh giá trong xă hội là làm quan thay v́ kinh doanh, nếu tâm lư quần chúng là một người làm quan cả họ phải được nhờ, nếu sự giàu có bị thù ghét, nếu hoạt động kinh tế được nh́n như một cuộc chơi với tổng sổ là số không, người này giàu tất nhiên kẻ khác phải nghèo, v́ thế kinh doanh đồng nghĩa với bóc lột. Muốn phát triển một xă hội, phải từ bỏ tâm lư cũ đă tạo ra sự lạc hậu và đề cao những giá trị tiến bộ: ḥa b́nh, tự do, dân chủ, nhân quyền, nhà nước pháp trị, đối thoại, hợp tác và lợi nhuận. Cần nhấn mạnh giá trị lợi nhuận.
Định luật 2 là kết luận căn bản nhất rút ra từ sự quan sát các nước đă phát triển đầu tiên và các nước mới phát triển gần đây sau cuộc du lịch tham quan của chúng ta trong nhưng bài trước. Điều đặc biệt cần ghi nhận là định luật này không có một ngoại lệ nào nếu ta nh́n trong chiều sâu thay v́ một cách phiến diện. Định luật 3 gần như là một hệ luận của định luật 2, nhưng nhấn mạnh tầm quan trọng của khả năng động viên quần chúng. Đồng thuận là điều kiện để ḷng yêu nước có thể đóng được vai tṛ kết hợp và thôi thúc của nó. Định luật này giải thích tại sao các chế độ phát-xít quân phiệt tại Đức, ư và Nhật trước thế chiến II đă đạt được những tiến bộ đáng kể trước khi sụp đổ trong máu lửa. Đó là v́ do hoàn cảnh lịch sử, các dân tộc này đă có một đồng thuận lớn và đă được động viên trong một cố gắng chung, dù chỉ là đồng thuận mê muội trên một ư đồ bá quyền nước lớn. Sau đó chính v́ không có dân chủ mà các nước này tích lũy mâu thuẫn và bị đẩy vào chiến tranh tự hủy. ở đây cũng cần hiểu rơ những định nghĩa khác nhau của ổn định. ổn định có lợi và cần thiết cho phát triển là ổn định trong sinh hoạt xă hội, nghĩa là hiến pháp và luật pháp, không bị thay đổi tùy tiện theo ư muốn của người cầm quyền. Đó hoàn toàn không phải là sự ổn định được hiểu như là sự không thay đổi người cầm quyền. Từ sau thế chiến II, Nhật và ư là hai quốc gia thay đổi chính phủ rất thường xuyên, trung b́nh một chính phủ chỉ kéo dài xấp xỉ một năm, mà vẫn phát triển mạnh bởi v́ luật chơi, nghĩa là hiến pháp và luật pháp không thay đổi. Trái lại, các nước độc tài, với những chính quyền kéo dài nhiều thập niên, lại rất tụt hậu. Tại sao? Bởi v́, như đă được tŕnh bày trong bài trước nhưng nhắc lại một lần nửa tưởng không phải là vô ích, chế độ độc tài cho phép người cầm quyền thay đổi luật chơi một cách tùy tiện, tạo ra xáo trộn và bất ổn thường trực cho sinh hoạt của xă hội.
Định luật 4 cũng hiển nhiên như định luật 2, nhưng có lúc đă bị che khuất bởi những tŕnh bày dối trá. Các chế độ phát-xít Đức, ư và Nhật trước tác chiến II và nhất là các chế độ cộng sản, bằng những giấu giếm và thống kê bịp bợm, đă làm cho nhiều người tưởng là có thể phát triển bằng những kế hoạch duy ư chí, bất chấp các qui luật của thị trường. Sự sụp đổ của phong trào cộng sản đă chỉ là sự tái lập lại một chân lư vốn đă có từ lâu.
Định luật 5 tập hợp hai nhận thức cơ bản: một là chính ư kiến và sáng kiến, chứ không phải nguyên nhân nào khác, làm cho kinh tế tăng trưởng, mà muốn ư kiến và sáng kiến nảy nở th́ xă hội dân sự và các cá nhân phải được giải phóng khỏi mọi g̣ bó; hai là các thủ tục rườm rà vừa ngăn cản sáng kiến vừa đề ra tham nhũng, bệnh ung thư của hoạt động kinh tế. Tham nhũng là ǵ nếu không phải là sự lạm dụng công quyền cho lợi ích cá nhân? Muốn tránh tham nhũng th́ trước hết phải giới hạn vai tṛ của chính quyền. Cũng phải nhận xét rằng thủ tục đẻ ra thủ tục bởi v́ nó tạo ra những công chức sống nhờ thủ tục và cố gắng tạo ra thêm càng nhiều thủ tục càng tốt để cũng cố địa vị. Mặt khác, chính quyền ôm đồm quá nhiều sẽ không làm tṛn được những nhiệm vụ tối cần thiết của một chính quyền, nghĩa là bảo vệ trật tự an ninh, trọng tài đúng đắn những mâu thuẫn và tranh tụng trong xă hội, thi hành đúng đắn luật pháp, ǵn giữ liên đới xă hội, quản lư đúng đắn tiền tệ. Một xă hội được cai trị quá nhiều cũng là một xă hội không được cai trị đầy đủ.
Định luật 6 nói lên sự cần thiết của một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lư. Mỗi quốc gia có những lư do khác nhau để bị tŕ trệ. Lư do có thể là những đặc quyền dành cho một giai cấp, một tập đoàn hay một số gia đ́nh, thành phần được ưu đăi này dựa vào địa vị áp đảo của ḿnh để kiềm giữ thành phần c̣n lại của xă hội trong sự nghèo khổ ngơ hầu giữ nguyên vai tṛ thống trị của ḿnh. Hay là một số người và nghề được tôn vinh quá đáng, ngược lại một loại người và nghề bị khinh bị và loại trừ, xă hội bị chia cắt thành những tập thể mâu thuẫn với nhau, phá hoại lẫn nhau và triệt tiêu lẫn nhau; sự lưu thông bị tắc nghẽn, xă hội ở trong một t́nh trạng nội chiến thường trực. Một thí dụ trong các xă hội theo văn hóa Khổng Giáo là lâm lư trọng văn khinh nghề, một tâm lư từ chối sự giàu mạnh. Một thí dụ khác, cũng trong các xă hội này, là tâm lư trọng nam khinh nữ, chà đạp và loại trừ khỏi hoạt động xă hội một nửa tài nguyên nhân lực.
Đoạn tuyệt văn hóa rất khó, như chúng ta đă nhận xét trong nhiều trang trước, nhưng đó là điều kiện tiên quyết để có thể phát triển. Nhiều người chất vấn: xă hội ta đặt nền tảng trên những giá trị Khổng Giáo, nếu bỏ đi chúng ta c̣n lại ǵ? Phải trả lời dứt khoát: chẳng thà không có ǵ c̣n hơn là có thuốc độc. Người phá rừng hoang làm đất canh tác không thể tự hỏi: khu đất này chỉ có cây hoang nếu phá hết th́ c̣n lại ǵ? Trước hết phải đốn hết cây dại trước khi làm đất và trồng cây ăn trái.
Đ́nh luật 7 nói lên một niềm tin rất nền tảng: tự do có khả năng sửa chữa những khuyết tật của chính nó. Nếu trong nhất thời tự do quá trớn có thể để ra những hậu quả xấu th́ sau đó chính cái tự do quá trớn đó sẽ xóa bỏ những hậu quả xấu này. Đây là niềm tin vào trí tuệ của con người. Định luật này cũng là một đồng minh của định luật 6. Tự do phát biểu tuyệt đối là vũ khí tiêu diệt mọi thành kiến lệch lạc, mọi ngăn cách, mọi đặc quyền đặc lơi. Đó cũng là vù khí hiệu lực nhất để chống tham nhũng. Tại sao nước Mỹ đă vươn lên từ một vùng đất hoang thành siêu cường số một của thế giới. Một trong nhưng lư do là hiến pháp Mỹ không những khẳng định tự do phát biểu mà c̣n cấm quốc hội biểu quyết bất cứ một đạo luật nào giới hạn tự do phát biểu, dù với đa số nào. Đễ có thể có một đoạn tuyệt văn hóa và tâm lư như định luật 6 đ̣i hỏi chúng ta không thể chỉ chấp nhận tự do, mà c̣n phải coi tự do như một quốc giáo và khuyến khích tự do dưới mọi h́nh thức như tự do suy nghĩ, phát biểu, chọn lựa, thụ hưởng, kể cả tự do cơ thể. Tự do cơ thể đặc biệt quan trọng bởi v́ khi cơ thể đă được giải phóng th́ rất nhiều thành kiến cũng tiêu tan và cách suy nghĩ sẽ thay đổi. Các trí thức canh tân của ta đầu thế kỷ 20 đă rất đúng khi họ kêu gọi cắt tóc ngắn, động tác giản dị này đă có ảnh hưởng tâm lư quyết định.
Đ́nh luật 8 là tuyên cáo của một xă hội nhân bản và một nền văn minh mới. Bạo lực phải bị lên án ngay trong ư niệm chứ không phải chỉ trong thực tế. Dù không dùng bạo lực thực sự đi nữa th́ khả năng sử dụng bạo lực hay ư nghĩ bạo lực cũng làm cho con người có thể thù ghét nhau v́ bất đồng ư kiến hay mâu thuẫn quyền lợi. Loại trừ hẳn bạo lực ngay trong ư niệm sẽ khiến mọi người không c̣n chọn lựa nào khác ngoài đối thoại tương kính để đi đến thỏa hiệp và như thế không những bảo đảm ḥa b́nh trong xă hội mà c̣n đem lại ḥa b́nh trong tâm hồn mọi người.
Định luật 9 cần được đặc biệt chú ư v́ nó là sự thực đă bị các quyền lực chính trị cố t́nh xuyên tạc và che đậy. Thương mại luôn là động cơ của mọi tiến bộ. Xă hội Hy Lạp nguyên thủy coi thương mại là hoạt động cao quí nhất, họ đặt giai cấp kỹ sư và thợ thủ công dưới giai cấp thương nhân. Dù là một phân biệt giai cấp không chính đáng, quan niệm này cũng bày tỏ một sự đánh giá có căn bản: thương nhân là những con người có bản lănh nhất, giao thiệp nhiều, hiểu biết rộng, nhiều sáng kiến và dám chấp nhận rủi ro. Người á Đông từ lâu cũng đă nhận định phi thương bất phú (không làm thương mại th́ không thể giàu có). Từ chối thương mại như vậy chính là từ chối sự giàu mạnh. Các chế độ độc tài toàn trị đều sợ thương nhân v́ thế chà đạp thương nhân để triệt tiêu một mối để dọa cho quyền lực của chúng. Một mặt chúng dùng bạo lực đàn áp, mặt khác chúng dùng độc quyền ngôn luận để phỉ báng thương nhân như là hạng người gian trá tham lam. Với thời gian chúng đă thành công tạo ra một thành kiến thù ghét đối với hoạt động kinh doanh làm giàu. Nho Giáo từ đời nhà Hán bắt đầu bài xích và cấm đoán thương mại. Các chế độ cộng sản trong thế kỷ 20 cũng có cùng một chọn lựa. Các xă hội Khổng Giáo ngày xưa và cộng sản gần đây tŕ trệ là v́ thế. Nguyên nhân sâu xa của chính sách bài bác thương mại là một triết lư chính trị: ưu tư ǵn giữ chính quyền được đặt trên sự giàu mạnh của xă hội. Các chế độ độc tài toàn trị không cần quốc gia giàu mạnh, trái lại chúng cần dân chúng nghèo khó và ngu dốt để có thể tiếp tục thống trị.
Thương mại đ̣i hỏi và làm phát triển nhiều đức tính tốt. Người làm thương mại phải hiểu nhu cầu của xă hội và v́ thế phải cố gắng t́m hiểu xă hội. Người làm thương mại sống bằng chữ tín nên phải thực thà, nếu không muốn bị tẩy chay và phá sản. Người làm thương mại cần khách hàng nên phải thực sự quí trọng người khác v́ không có sự giả dối nào có thể kéo dài. Người làm thương mại phải tỏ ra dễ mến để tranh thủ khách hàng cho nên ngôn ngữ và thái độ phải trang nhă. ở một chương trước chúng ta đă nói rằng chính v́ thương mại không phát triển mà con người trong các xă hội Khổng Giáo thường rất thô lỗ.
Thực tế cho thấy các tiến bộ đầu tiên, kể cả dân chủ, đă xuất hiện tại các trung tâm thương mại. Các thí dụ phát triển đầu tiên tại Ḥa Lan, Anh và Mỹ cũng đă chứng tỏ vai tṛ quyết định của thương mại.
Định luật 10 và một nhận định thực tiễn. Xă hội phát triển chỉ có thể là xă hội dân chủ pháp trị. Nhưng muốn luật pháp được tôn trọng, trước hết luật pháp phải được mọi người thấu hiểu. Không thể lấy một đạo luật, dù hay tới đâu, của một nước đă phát triển và có hoạt động kinh tế phức tạp để áp đặt vào một nước mà đa số dân chúng chưa đọc thông viết thạo và hoạt động kinh tế chủ yếu là trao đổi trực tiếp hay buôn bán lặt vặt, hay sản xuất trên qui mô gia đ́nh. Luật pháp phải phù hợp với tŕnh độ hiểu biết trung b́nh của xă hội.
Luật pháp không hoàn chỉnh nhưng áp dụng được c̣n hơn luật pháp hoàn chỉnh những người dân không hiểu nổi và do đó không thể tuân thủ. Luật pháp phải được xây dựng một cách liên tục và trưởng thành cùng với sự phát triển của quốc gia. Nhưng ở đây phải đặc biệt cảnh giác trước một sự gian trá khác. Đó là giới hạn tự do và dân chủ viện cớ dân trí chưa cao. Ngược lại, và ngược hẳn lại, chính trong hoàn cảnh dân trí chưa cao và hoạt động kinh tế chưa phức tạp, luật pháp phải ít g̣ bó hơn, ít giới hạn hơn. Sự gian trá của các chế độ độc tài đập vào mắt mọi người: chúng nhằm đàn áp trước hết những người có tŕnh độ cao, chúng dồn những cố gắng rất tốn kém để kiểm soát tư tưởng, trong khi để mặc cho các tệ đoan xă hội hoành hành. Các xă hội độc tài khắc nghiệt thường rất hỗn loạn và vô kỷ luật: trộm cướp, măi dâm, buôn lậu, phóng uế, phá hủy môi trường, đánh cá bằng chất nỗ v.v... hầu như không bị kiểm soát v́ lư do dễ hiểu là các tệ nạn này không đe dọa tập đoàn cầm quyền.
Mười định luật về phát triển trên đây có thể tóm gọn trong bốn chữ: dân chủ đa nguyên. Trong một xă hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi người phải được tôn trọng, được tự do kết hợp, bầu cử và ứng cử. Chính quyền như thế sẽ xuất phát từ dân chúng và được dân chúng ủng hộ. Trong một xă hội dân chủ đa nguyên tất nhiên mọi ư kiến, dù mới mẻ và có vẻ ngược đời đến đâu cũng vẫn được quyền phát biểu. Tinh thần đa nguyên, nghĩa là tinh thần tôn trọng mọi khác biệt, có hệ luận tự nhiên là người ta không được dùng bạo lực để tiêu diệt người khác ư kiến và quyền lợi với ḿnh, mà phải t́m cách sống chung qua đối thoại và thỏa hiệp. Đă không tiêu diệt và đàn áp lẫn nhau th́ cố gắng tự nhiên là t́m đồng thuận. Đă tôn trọng mọi người, dù thuộc thành phần xă hội nào và khuynh hướng nào, th́ tất nhiên không thể có những đặc quyền đặc lợi, thành kiến và ngăn cách; hay nếu có cũng sẽ bị xóa bỏ với thời gian. Sau cùng, một xă hội dân chủ đa nguyên, sau khi các thành kiến và đặc quyền đă được hủy bỏ, chắc chắn sẽ khám phá ra vai tṛ chủ đạo của thương mại v́ đó là một sự thực hiền nhiên, mọi người đều có thể thấy một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Tới đây có lẽ cũng nên có một nhận định tổng hợp và đúc kết về hiện tượng phát triển kinh tế: tăng trưởng kinh tế, nguyên nhân của phát triển, xảy ra khi xă hội hội đủ ba yếu tố: (1) nhiều người lạc quan và muốn kinh doanh, (2) họ có thể kinh doanh và (3) họ có phương tiện để kinh doanh.
Để lạc quan và muốn kinh doanh, họ cần một bối cảnh tâm lư thuận lợi: hoạt động kinh doanh được xă hội quí trọng, ư kiến và sáng kiến được đề cao, sự chấp nhận rủi ro được đề cao và dĩ nhiên ḷng tin trong kinh doanh sẽ thành công.
Để có thể kinh doanh, doanh nhân cần trật tự an ninh, cần được tự do hoạt động và được luật pháp bảo vệ và luật pháp không thay đổi một cách tùy tiện. Họ cũng không thể bị trói buộc bởi quá nhiều qui định, không bị g̣ bó trong một kế hoạch quốc gia cứng nhắc, và nhất là không bị sách nhiễu bởi tệ tham nhũng, một căn bệnh trầm kha của mọi chế độ độc tài.
Phương tiện kinh doanh không phải chỉ là vốn. Trước hết là một nguồn nhân lực có phẩm chất, hạ tầng cơ sở và các phương tiện giao thông và truyền thông tốt, một hệ thống ngân hàng đắc lực khi cần vốn luân chuyển. Vốn đầu tư chỉ là một trong những phương tiện và cũng không phải là phương tiện quan trọng nhất. Tư bản có trí khôn và lô-gích riêng của nó, ở đâu kinh doanh có lợi vốn sẽ tự nó t́m đến. Yếu tố quan trọng nhất vẫn là những con người cần mẫn và có kỹ năng.
Cả ba yếu tố nền tảng trên đây cho tăng trưởng kinh tế, và phát triển kinh tế sau đó, một lần nữa nhắc nhở chúng ta một chân lư: phát triển hay tŕ trệ chủ yếu là một vấn đề tâm lư và văn hóa.
Chúng ta cần thay đổi văn hóa, nghĩa là thay đổi xă hội và con người để có thể phát triển.
Một lời trước khi chấm dứt. Những qui luật phát triển trên đây có thể làm cho một số độc giả phân vân: phải chăng chúng ta tiến tới một xă hội do đồng tiền ngự trị? Sự phân vân càng day dứt đối với tâm hồn á Đông, và nhất là Việt nam, từ ngàn xưa đă coi sự thanh bản như một giá trị cao quí. Nhưng thực ra một xă hội phát triển và tự do không phải chỉ đem lại sự giàu có; nó c̣n đem lại phẩm giá cho con người, đem lại sự sáng tạo trong mọi địa hạt. Tôi không biết một triết gia phương Tây nào đó đă nói: Đồng tiền là một đầy tớ tốt nhưng là một chủ nhân xấu. Câu nói này được rất nhiều người coi là cao siêu nhưng thực ra nó chỉ là một nhận xét của một người thiếu hiểu biết. Đông tiền chắc chắn không phải là ông chủ tốt bởi v́ nó không có lương tâm và t́nh cảm, nhưng nó cũng không thể là một đầy tớ. Nó quá mạnh và kiêu hănh. Nếu bị coi là một đầy tớ, nó sẽ phản ứng thẳng tay và làm chúng ta đau đớn. Đồng tiền, hay đúng hơn tài sản, khi đă đạt tới một tầm vóc nào đó, có cuộc sống riêng của nó và cũng có lô-gích riêng của nó; chúng ta phải thảo luận và thỏa hiệp với nó chứ không thể coi nó như một vật dụng. Nó cần được đối xử như một người bạn và một người đồng đội chứ không phải một chủ nhân hay một đầy tớ. Nó không thống trị mà cũng không khuất phục. Vả lại, ngay cả sự thống trị của đồng tiền, dù không phải là lư tưởng, cũng vẫn dễ chịu hơn là sự chuyên chế của đức hạnh. Đồng tiền là tiện nghi, là tự do và là điều ai cũng có thể hiểu và chấp nhận, trong khi đức hạnh thường chủ quan và thay đổi theo người, hay lớp người, có quyền quyết định cái ǵ là đức hạnh, cái ǵ là trái với đức hạnh. Đức hạnh có thể là một nhà tù vô h́nh nhưng rất nghiệt ngă.