Như tôi đă tŕnh bày,
khi phê phán Khổng Giáo không nên đồng hóa nó với ông Khổng Khâu, càng không nên
đổ hết trách nhiệm cho ông. Ông không chí thánh chí nhân như ông Trần Trọng Kim
viết trong cuốn Nho Giáo, những cũng là người tốt, ông mở trường tư đầu tiên và
tạo ra một cơ hội tiến thân quan trọng cho tàng lớp thứ dân. Thế cũng là một người
có công lớn với đời rồi. Ông dạy học tṛ nhiều điều về luân lư thực tiễn. Xét
theo bối cảnh thời đại của ông, trong những điều ông nói có những điều khá đúng,
những điều hơi sai và những điều rất sai. Đó là lẽ tự nhiên, không có học giả,
triết gia nào chỉ phát biểu những điều hoàn toàn đúng. Socrate, Platon, Aristote
cũng vậy thôi, họ có những ư kiến thật sáng nhưng cũng có những nhận định sai
lầm, thiếu sót. Bổn phận của những người đi sau là giữ lại, bổ túc và khai triển
những đóng góp đúng, bỏ đi những sai lầm và, dĩ nhiên, không ngừng thêm vào
những khám phá mới.
Văn hóa Khổng Giáo trở thành độc hại không phải v́ nó sai ngay từ đầu mà v́ nó
đă không biết đổi mới. Nó đă khai thác triệt để hai tính xấu của Khổng Tử là
tinh thần thủ cựu, bài bác điều mới lạ, và tinh thần bất dung (thí dụ như việc
giết thiếu chính Măo chỉ v́ ông Măo có tài biện luận và không đồng ư với Khổng
Tử). Không những thế nó c̣n bóp méo tư tưởng của chính Khổng Tử.
Một thí dụ của sự xuyên tạc đó là tinh thần an bần lạc đạo, nghĩa là cam phận
nghèo mà vui với đạo đức. Tinh thần này theo các nho sĩ lấy từ một câu trong
Luận Ngữ. người quân tử chỉ lo giữ đạo lư chứ không lo nghèo (quân tử ưu đạo bất
ưu bần). Nhưng Khổng Tử nào đâu có ư định nói như thế. Ông nói nguyên văn như
thế này: Người quân tử mưu t́m học đạo chứ không mưu t́m miếng ăn. Làm ruộng có
khi mất mùa cũng đói, c̣n học đạo th́ có lộc. Người quân tử chỉ cần lo học cho
giỏi chứ đừng sợ nghèo (Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Canh dă, nỗi tại kỳ trung
hĩ. Học dă, lộc tại kỳ trung hĩ. Quân Tử ưu đạo bất ưu bần). Đó chỉ là một lời
khuyên thực dụng mà thôi, có nghĩa là cứ lo học đi rồi sẽ được làm quan và sẽ có
ăn. Nên nhớ rằng mục đích của việc học đạo chỉ là để được làm quan. ư Khổng Tử
qua câu nói này hoàn toàn không phải là sự chấp nhận nghèo khổ miễn là sống hợp
đạo đức. (Cần hiểu chữ đạo của Khổng Tử đồng nghĩa với nghề, nghĩa là học thi,
thư, lễ, nhạc cho thạo để ra làm quan chứ không phải là đạo đức như ta hiểu).
Chính Khổng Tử cũng rất ham phú quí, ông từng nói phú quí mà cầu được th́ dù phải
làm kẻ cầm roi đánh xe ngựa ta cũng nhận (phú quí nhi khả cầu dă, tuy chấp tiên
chi sĩ, ngô diệc vi chi). Khổng Tử lương thiện nhưng không phải v́ thế mà ông đề
cao sự nghèo khổ. Ông đă đi khắp nơi cầu được làm quan, có lúc sẵn sàng làm gia
nhân cho những kẻ giàu có phản trắc. Nhân sinh quan của ông rất thực dụng: cầu
ích lợi cho ḿnh và sống lương thiện. Đó là một nhân sinh quan rất khiêm tốn về
mặt đạo đức.
Từ đời nhà Hán, luân lư của Khổng Giáo bị bóp méo đi để biến thành một thứ luân
lư nông nghiệp lạc hậu. Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ, sau khi diệt được Tần và Sở,
thống nhất thiên hạ, nhận định rằng mối nguy cho ḍng họ ḿnh là những kẻ giàu
có và gan dạ. Ông bèn xóa bỏ thương nghiệp và chỉ giữ lại nông nghiệp. Việc phân
chia xă hội ra bốn giai cấp sĩ, nông, công, thương bắt đầu từ đó. Nếu chỉ xét về
mục đích duy tŕ quyền hành th́ nhà Hán hoàn toàn có lư. Nghe nông chân lấm lấy
bùn, được mùa th́ no, mất mùa th́ đói, không thể nào giàu lớn được, gia tài chỉ
là ruộng đất, có bao nhiêu triều đ́nh thấy rơ hết. Vả lại, người nông dân ở yên
một chỗ, kiến thức hạn hẹp mà đởm lược cũng không có bao nhiêu. Trái lại, người
buôn bán giao du nhiều, hiểu biết rộng răi, lại quen đương đầu với rủi ro thành
ra gan dạ (có gan làm giàu). Nghề buôn bán lại dẽ phát đạt, có thể đưa tới những
tài sản rất lớn, kín đáo và dễ di chuyển. Những thương nhân giàu có này lại
không làm quan ăn lộc vua và do đó không mang ơn vua như lớp nho sĩ, họ có thể
là những đe dọa lớn cho các vua chúa. Chính v́ thế mà nhà Hán dẹp bỏ thương
nghiệp, và khi thương nghiệp đă bị xóa bỏ, sự trao đổi hàng hóa không c̣n nữa
th́ công nghiệp chỉ c̣n là một nghề phụ của nghề nông, làm ra những nhu yếu phẩm
cho xóm làng mà thôi. Dưới đời nhà Hán, thương nhân không những bị trù dập thô
bạo mà c̣n bị miệt thị như những kẻ xấu xa, đáng khinh bỉ.
Các triều đại về sau có lúc nới lỏng cho thương nghiệp đôi chút nhưng rời lại
xiết lại ngay. Triều đại nào cũng coi thương nghiệp là mối nguy và đều ra sức
trù dập và miệt thị. Cuối cùng với thời gian một giá trị mới đă được thêm vào
Khổng Giáo, đó là tâm lư khinh bỉ nghe buôn bán. Phải công b́nh mà nói, tâm lư
này hoàn toàn không có trong đầu óc Khổng Tử. Cả Khổng Tử lẫn các môn đệ của ông
đầu không bao giờ bài xích thương nghiệp, cũng như Marx không bao giờ tưởng tượng
có việc kiểm duyệt báo chí hay những chiến dịch tẩy năo, những trại tù cải tạo
tư tưởng của các chế độ cộng sản sau này.
Thương nghiệp là động cơ tiến hóa của mọi xă hội. Nó vừa là sự chấp nhận rủi ro
cho đổi mới vừa là sự giao lưu của người, của kiến thức, ư kiến và sáng kiến. Nó
cũng là sự giàu có. Thương nghiệp đối với xă hội cũng như máu đối với cơ thề, nó
là yếu tố tối cần thiết cho mọi sinh hoạt khác, dù là nông nghiệp, cộng nghiệp
hay văn hóa xă hội. Có thương nghiệp mới có tiến bộ. Không có thương nghiệp th́
xă hội tê liệt và dẫm chân tại chỗ, kể cả về vật chất lấn tinh thần, là lẽ tự
nhiên. Trong những yếu tố độc hại của Khổng Giáo, yếu tố độc hại nhất trên hẳn
mọi yếu tố khác chính là sự thù ghét thương nghiệp, mà về việc này th́ Khổng Tử
hoàn toàn vô can. Nó là một phát minh của Hán Nho và được duy tŕ v́ cần thiết
cho sự ồn vững của các chế độ quân chủ chuyên chế. Không phải là một sự t́nh cờ
mà các tiến bộ lớn của nhân loại đă phát sinh từ các thị trấn buôn bán và tư tưởng
dân chủ cũng như các chế độ dân chủ đầu tiên đă nảy sinh từ đó. Cũng không phải
là một sự t́nh cờ mà Hoa Kỳ, một quốc gia tạp chủng, khởi hành từ số không những
có mẫu số chung là business, đá mau chóng trở thành siêu cường số một của thế
giới.
Như đă nói, Việt nam vừa h́nh thành th́ đă tiếp thu Khổng Giáo từ đời nhà Hán,
nghĩa là khi Khổng học đă bị tồi tệ hóa do sự thêm vào nhiều yếu tố độc hại,
trong đó độc hại nhất là tâm lư thù ghét thương nghiệp. Suốt ḍng lịch sử, chúng
ta đă chỉ biết có tâm lư này, không như người Trung Hoa ít ra đă có một thời
Xuân Thu Chiến Quốc trong đó cả một rừng hoa tư tưởng nở rộ và thương nghiệp
phát triển mạnh. Chính v́ thế mà văn hóa của ta thấp kém hơn văn hóa Trung Quốc.
Chính v́ thế mà chúng ta dở về buôn bán hơn tất cả mọi quốc gia có cùng một
chiều dài lịch sử.
Như một người mù ḷa quen với bóng tối, Việt nam cũng như Trung Quốc, nhưng hơn
cả trung Quốc, đă thích nghi với sự nghèo khổ và t́m an ủi ngay trong sự nghèo
khổ. An bần lạc đạo là một triết lư và một thứ thuốc an thần ru ngủ trí tuệ ta.
Đáng lẽ chỉ nên coi sự nghèo khổ là một t́nh trạng đáng buồn cần chấm dứt, chúng
ta coi nó như một sự vinh quang. Đáng lẽ chỉ nên coi người nghèo là những người
không may cần được giúp đỡ, ta lại coi họ là những người trong sạch đáng tôn
vinh. Tâm lư này lại là tâm lư của kẻ sĩ, nghĩa là thành phần tinh nhuệ nhất,
hiểu biết nhất.
Nếu thù ghét thương mại là di sản độc hại nhất của Khổng Giáo th́ nó cũng là di
sản nặng nề nhất của người Việt, ngay trong lúc này.
Thế hệ của tôi, những người vào đại học trong thập niên 1960, hoàn toàn bị tâm
lư trọng sĩ khinh thương chế ngự. Ước mơ của chúng tôi chỉ là đậu cử nhân, tiến
sĩ, bác sĩ, kỹ sư để được làm giáo sư giám đốc. Cha mẹ chúng tôi cũng chúc tụng
và mơ ước cho chúng tôi tương lai đó. Tâm lư của chúng tôi hoàn toàn là tâm lư
kẻ sĩ, nghĩa là tâm lư làm quan hoặc làm công ăn lương, dù chúng tôi chẳng hề
học Tứ Thư, Ngũ Kinh bao giờ. Cái tâm lư đó, chúng tôi đă tiếp thu từ sinh hoạt
gia đ́nh và xă hội. Và chúng tôi cũng đă được giáo dục ngay tại trường học theo
tâm lư đó. Nhưng mẫu người mà chúng tôi được khuyến khích dề noi gương chỉ là
những danh tướng, danh thần, những nhà nho liêm chính, những nhà thơ, nhà văn,
hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Ngay cả những danh nhân ngoại quốc chúng
tôi biết đến cũng chỉ là những ông vua, ông tướng, hay các nhà bác học, các nhà
chính trị và các nhà văn lớn chứ hoàn toàn không có một doanh nhân nào. Doanh
nhân là một giống người không ra ǵ. Chúng tôi đă lớn lên với một hệ thống giá
trị như thế. Chúng tôi được đào tạo để làm những con người sống ngoài lề xă hội
hay, nếu may mắn hơn, sống trên xă hội chứ không hội nhập và sống trong xă hội.
ở vào thế hệ của tôi, và một phần nào đó ngay bây giờ tại Việt nam, học hết tú
tài là đă thuộc thành phần tinh nhuệ của xă hội. Tôi may mắn thuộc vào thành phần
tinh nhuệ nhất của thành phần tinh nhuệ đó. Bạn bè quen biết của tôi có vài trăm
người được đi du học tại châu Âu, Hoa Kỳ, úc, New Zealand và Nhật. Tất cả đều
thông minh tuấn tú, tất cả đều đă thành công theo tiêu chuẩn Việt nam, nghĩa là
ngày nay chúng tôi đều có văn pḥng luật sư, pḥng mạch bác sĩ, nha sĩ, làm giáo
sư hay kỹ sư, với một cuộc sống tương đối thoải mái, nhưng doanh nhân th́ chỉ có
một vài người. Một số kỹ sư, chuyên viên nay đă ngoài năm mươi tuổi, lương quá
cao so với yêu cầu của xí nghiệp đang ḥi hộp lo âu bị cho nghỉ việc, có những
người đă mất việc. Nếu khối sinh lực và trí tuệ đó được dồn vào kinh doanh th́
đất nước đă khá hơn biết bao nhiêu, và ngay cả cuộc sống của mỗi chúng tôi cũng
khá hơn nhiều. Hơn nữa nghề làm công, hay nghề cá nhân, đă không cho chúng tôi
những cơ hội để tiếp xúc và học hỏi, cũng không đặt chúng tôi trước những trách
nhiệm quan trọng; kết quả là giờ đây, vào giai đoạn gần chót của sự nghiệp,
chúng tôi không những chỉ b́nh thường về vật chất mà c̣n kém cỏi cả trong tầm
vóc và sự hiểu biết.
Thế hệ chúng tôi đă thừa hưởng một hệ thống giá trị độc hại và đă truyền lại nọc
độc cho thế hệ sau. Tôi chưa nhận thấy một chuyển biến tâm lư đáng kể nào trong
giới trẻ Việt nam. Phần lớn các con cháu của các bạn tôi đều hướng về những
ngành học thuần túy kư thuật, và khi họ có học về doanh thương th́ cũng chỉ với
tâm lư công nhân mà thôi. Tôi tiếp xúc với nhiều thanh niên và lúc nào cũng hỏi
họ dự định thế nào cho tương lai, họ sẽ làm ǵ ở tuổi bốn mươi. Cho tới nay
những câu trả lời của họ cũng không khác bao nhiêu so với thế hệ chúng tôi. Việt
nam vẫn c̣n chờ đợi một chuyển biến tâm lư lớn, dù đă trải qua nhiều xáo trộn
khốc liệt. Đó là tôi chỉ gặp một thành phần thanh niên may mắn có cơ hội để tiếp
xúc với thế giới tiến bộ bên ngoài, những người lớn lên tại hải ngoại, hoặc
những thành phần ưu tú được gởi ra nước ngoài làm nghiên cứu sinh hay thực tập
sinh. Những thanh niên ở Việt nam sang c̣n cho tôi hay tâm lư của thanh niên
trong nước c̣n tŕ trệ hơn họ về mặt kinh doanh. T́nh trạng này cho thấy ảnh hưởng
của một nền văn hóa dai dẳng tới mức nào.
Chúng ta vẫn c̣n là những đứa con tinh thần của Khổng Giáo Việt nam một thứ
Khổng Giáo đặc biệt tăm tối. Cái văn hóa Khổng Giáo đó đă làm thui chột cả một
dân tộc. Nó khiến chúng ta dị ứng thương nghiệp đă đành, nhưng nó cũng gây ra
một mặc cảm thấp kém ngay cả trong một số hiếm hoi dám kinh doanh buôn bán. Một
người Việt nam hănh diện với một đứa con tốt nghiệp đại học và lănh lương vừa đủ
sống hơn là một đứa con bán phở với lợi tức gấp bốn, năm lần. Một thương gia
giàu có cũng thích gả con gái cho một tiến sĩ hơn là một thương gia trẻ, và cũng
rất hài ḷng nếu tất cả các con ḿnh trở thành bác sĩ, kỹ sư và bỏ nghề buôn. Họ
không thể trở thành những thương gia lớn được bởi v́ họ không hănh diện về nghề
nghiệp của họ, và họ không hănh diện về nghề nghiệp của họ v́ thành phần xă hội
của họ bị khinh khi. Ngôn ngữ Việt nam không thiếu những danh từ thóa mạ đối với
người buôn bán: tên lái buôn, bọn con buôn, bọn hàng tôm hàng cá, v.v:.. Sự
khinh bị này đưa tới một hậu quả thực sự là những người buôn bán nhỏ bị co cụm
lại thành những nhóm cô lập, hờn giận với phần c̣n lại của xă hội, rồi cũng mất
đi sự tự trọng và cư xử một cách rất thô lỗ trái ngược với tinh thần phải có của
thương nghiệp. Kết quả là cả nghề buôn bán lẫn việc buôn bán đều không vươn lên
được.
Văn hóa Khổng Giáo Việt nam tạo ra những thành kiến rất sai lầm và bất công đối
với các thương gia. Sau khi đậu xong tú tài I tôi được một thương gia giàu có mướn
dạy kèm cô con gái vừa lên đệ tứ, tức lớp 9 bây giờ. Những thành kiến sai lầm đă
khiến tôi h́nh dung ông ta là một con người vô học chỉ sống v́ đồng tiền, và
chắc là giả dối và gian lận. Tôi khám phá ra ḿnh ngu dốt. Hai ông bà vất vả
suốt ngày, họ chỉ về nhà vào khoảng 9, 10 giờ tối. Họ bặt thiệp, hiền lành và
rất hiểu biết. Tôi nhận ra bà ấy thông minh hơn hẳn các bà mẹ Việt nam khác và
ông ấy có kiến thức cao hơn và rộng hơn hẳn những giáo sư của tôi. Ông bà ấy
h́nh như chưa học hết bậc trung học, nhưng họ đă đạt tới tŕnh độ hiểu biết cao
nhờ học hỏi trong cuộc sóng, bằng sự giao tiếp trong xă hội và bằng suy tư cá
nhân. Cuộc gặp gỡ kéo dài hơn một năm này đă là một may mắn lớn cho tôi. Tôi
được một số tiền thù lao khá lớn, đủ sống cho ḿnh mà c̣n giúp đỡ được cả gia
đ́nh; nhưng tôi c̣n được cả một sự tỉnh ngộ.
Sau khi đi du học về, tôi làm tại Ngân Hàng Việt nam Thương Tín rồi sang Bộ Kinh
Tế và lại có dịp gặp gỡ nhiều doanh nhân khác. Ngay khi về Việt nam tôi đă được
nghe nhiều huyền thoại về các doanh nhân người Hoa, những Lư Long Thân, Huỳnh
Trù, Trần Thành, Trương Đông Lương, v.v... Họ được mô tả là những người giàu sụ,
có biệt tài làm ra tiền mặc dầu dốt nát tới độ kư tên ḿnh c̣n run tay. Sự hiểu
ngầm ở đàng sau là họ giàu có nhờ khôn vạt, láu cá, mánh mung.
Điều đáng để ư là thành kiến không tốt đối với các doanh nhân gốc Hoa này không
phải chỉ có trong dân chúng và báo chí, mà c̣n hiện diện ngay cả trong giới
chuyên viên tài chánh, đáng lẽ ra phải được giác ngộ về kinh doanh. Hoàn cảnh đă
cho tôi cơ hội gặp gỡ với những người này, và tôi nhận ra họ là nhưng con người
rất thông minh và ngay thẳng. Không những thế, họ c̣n có kiến thức rộng răi về
những vấn đề chính trị, văn hóa và xă hội. Trong buổi lễ khánh thanh một nhà máy
cán sắt mới của công ty Vicasa, Lư Long Thân, chủ tịch công ty, sắp xếp để tôi
ngồi ngay bên cạnh ông, buổi tiệc đă kéo dài hơn thường lệ v́ sau cà phê Lư Long
Thân c̣n tṛ chuyện với tôi hơn hai giờ nữa. Lư Long Thân không cần ǵ tôi cả,
ông ấy chỉ nói chuyện v́ gặp người hợp ư mà thôi. Ông ấy kể cho tôi những cuộc
gặp gỡ và nhưng câu chuyện giữa ông ấy với các cấp lănh đạo Việt nam Cộng Ḥa và
đặc biệt là buổi gặp gỡ một tuần trước đó với đại sứ Mỹ Graham Martin. Lư Long
Thân hiểu biết nguy cơ đối với Việt nam Cộng Ḥa hơn là các cấp lănh đạo Việt
nam mà tôi thường gặp. Nếu Nguyễn Văn Thiệu thực sự dùng Lư Long Thân làm cố vấn
như nhiều lời đồn đại th́ có thể Việt nam Cộng Ḥa đă may mắn hơn.
Tâm lư bài bác thương nghiệp và tôn vinh sự thanh bạch tạo ra cho người Việt nam
một quan hệ bệnh hoạn và tội lỗi đối với tiền bạc. Chúng ta đều biết quyền lực
của đồng tiền, câu tục ngữ có tiền mua tiên cũng được không phải mới có. Hai chữ
nói lái đầu tiên là tiền đâu cũng không mới. Chúng ta đều cần tiền và muốn có
tiền nhưng chúng ta không đám công khai kiếm tiền, chúng ta được giáo dục để coi
kiếm tiền như là một sự vẩn đục và chúng ta cố làm ra vẻ khinh thường sự giàu có
và hănh diện với cảnh thanh bần. Chúng ta muốn mà không dám, chúng ta ao ước và
giấu giếm như một tiểu thư con nhà gia giáo bề ngoài đề cao tiết hạnh dù trong
pḥng vắng nhiều đêm cũng trằn trọc mơ ước những giây phút hoan lạc của một cô
gái phá lệ. Cả một xă hội sống trong sự giả dối. Tâm lư này tạo ra cả một truyền
thống tham nhũng. Thành phần tinh nhuệ đua nhau đi làm quan thay v́ làm giàu.
Mặt khác, các ông quan thời xưa và các quan chức nhà nước ngày nay không thể
sống với đồng lương chật hẹp cho nên phải dựa vào quà cáp, hay phải nhắm mắt để
các bà vợ ăn tiền thay ḿnh để giữ được một mức sống đàng hoàng. (H́nh như ngày
nay đă tiến bộ hơn, các quan chức thẳng thắn đ̣i tiền hối lộ chứ không cần qua
một trung gian nào cả). Chống tham nhũng ở Việt nam rất khó v́ chúng ta có cả
một văn hóa tham nhũng do truyền thống để lại.
Văn hóa thanh bần của Khổng Giáo cũng đă đem lại cho chúng ta những tai họa về
chính trị. Ông Hồ Chí Minh và ông Ngô Đ́nh Diệm đều được kính trọng v́ họ tỏ ra
là những người thanh liêm. Họ không có vợ, và điều đó h́nh như kéo theo hệ luận
là họ trong sạch, thanh liêm. Họ được tín nhiệm về đức chứ không phải v́ tài và
thực sự cả hai đều không có khả năng, cả hai đều thiếu bản lĩnh, đều không nh́n
thấy những vấn đề và những giải pháp cho đất nước, nhưng họ đă được văn hóa và
tâm lư Việt nam đặt vào vị trí quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai
đoạn trọng đại. Ông Hồ Chí Minh được tôn sùng hơn ông Ngô Đ́nh Diệm v́ đóng kịch
khéo hơn, ông xuất hiện như một nhà nho khổ hạnh, sống suốt đời và tất cả cho
dân tộc, trong khi thực ra ông là một người ham thụ hưởng hơn hắn mức trung
b́nh. Cả hai ông, dù đă được ngoại bang nâng đỡ hay đặt để, cũng đă là sản phầm
của văn hóa Khổng Giáo. Hai ông không chiếm độc quyền sân khấu chính trị Việt
nam nhưng là những nhân vật tiêu biểu nhất. Những người lănh đạo chính trị khác,
khi không hoàn toàn do ngoại bang chọn lựa, cũng giành được địa vị v́ những lư
do thuần túy thuộc đức . Họ được tiếng là những người, hoặc thanh liêm, hoặc can
trường, hoặc có công v́ đă vào tù ra khám, chứ hoàn toàn không phải v́ họ được
nh́n nhận là có khả năng làm cho đất nước giàu có hơn. Kết quả: bốn triệu người
chết và một GDP 300 đô la mỗi năm cho mỗi đầu người.
Văn hóa Khổng Giáo c̣n để lại cho chúng ta một di sản khác là sự vô lễ quá đáng.
Mới đây tôi được đọc trên một tờ báo trong nước một bài của nhà văn Trần Mạnh
Hảo đả kích một nhà văn khác vừa được giải thưởng văn học. Trước đây tôi đă được
biết đến Trần Mạnh Hảo qua tác phẩm Ly Thân và có cảm t́nh với ông. Sau này tôi
lại được nghe những dư luận không tốt về tư cách của ông từ những người mà tôi
kính trọng về kiến thức và nhân cách. Tôi vẫn c̣n phân vân và bài báo của Trần
Mạnh Hảo một phần nào đă giải tỏa cho tôi sự phân vân đó. Trần Mạnh Hảo đả kích
đoạn của tác phẩm thuật lại chuyện vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Trần Mạnh Hảo hoàn
toàn không dựa vào một tài liệu nào cả, nhưng cảm thấy có thể thẳng thắn bác bỏ
chuyện của tác giả kia. Tại sao? Chỉ giản dị là tại cách xưng hô. Tác phẩm kia
thuật lại những lời đối đáp của viên công sứ Pháp gọi vua Hàm Nghi là ngài, là
nhà vua, v.v... Như thế là đủ để Trần Mạnh Hảo quả quyết là tác giả đó đă bịa
đặt trắng trợn bởi v́ có khi nào một người chiến thắng lại nói với một tù nhân
với lời lẽ cung kính như vậy. Trần Mạnh Hảo không hiểu rằng đó là cách đối xử
rất tự nhiên và rất b́nh thường của người phương Tây, bởi v́ Trần Mạnh Hảo thuộc
văn hóa Việt-Trung, trong đó sự lỗ măng là một thông lệ. Những ai đọc truyện Tàu
và truyện đă sử Việt nam đều đă quá quen với ngôn ngữ xỉ vả và thóa mạ kẻ thù,
nhất là kẻ thù sa cơ thất thế (trong các truyện Tàu tôi chỉ thấy thời Tam Quốc
có Tào Tháo và Tôn Quyền là đôi khi đối đáp nhă nhặn với người chiến bại). Một
chi tiết khác trong bài của Trần Mạnh Hảo là lời lẽ của nó rất gay gắt. Đó cũng
là đặc tính chung của phần lớn những bài tranh luận giữa người Việt nam thuộc
mọi thế hệ. H́nh như chúng ta cảm thấy có bồn phận phải nổi giận khi không đáng.
Nhưng sự lỗ măng không phải là một nét đặc trưng của riêng văn hóa Khổng Mạnh,
mà là của mọi nền văn hóa trong đó thương mại thiếu vắng. Thương mại khiến người
ta gặp gỡ nhiều, tiếp xúc rộng và trở thành lịch sự. Thương mại cũng bắt buộc
người ta t́m lời lẽ trang nhă để thuyết phục khách hàng. Thương mại cũng bắt
buộc người ta t́m hiểu khách hàng, đặt ḿnh vào địa vị khách hàng để cố khám phá
khách hàng muốn ǵ và sau đó để chinh phục cảm t́nh của khách, để khách mua hàng
hóa hay dịch vụ cần dùng nơi ḿnh thay v́ nơi một nhà cũng cấp khác. Những người
có chút kinh nghiệm về thương mại đều hiểu rằng muốn như thế th́ chỉ có một cách
là phải rất lương thiện, rất lễ độ và quí mến khách hàng một cách thực sự. Cảm
t́nh và khả tín là hai vốn quí nhất của một doanh nhân. Thiếu hai đức tính đó
th́ tốt hơn hết là đừng đi vào thương nghiệp, cùng lắm chỉ thành công nhỏ và tạm
bợ mà thôi. Chính v́ thế mà các dân tộc buôn bán cũng là những dân tộc khả ái
nhất.
Đọc một số bài phê phán văn hóa Khổng Giáo của tôi một số thân hữu thường bày tỏ
sự lo ngại là nếu không c̣n Khổng Giáo liệu chúng ta có mất luôn các lễ giáo cỗ
truyền của ḿnh không? Xin các bạn yên tâm. Trước hết, chỉ 10 các bạn không bỏ
được sớm thôi, từ giă một nền văn hóa khó lắm. Sau đó, chúng ta sẽ lễ độ hơn chứ
không mất lễ độ đâu. Một cách không chủ ư nhưng có thực, văn hóa Khổng Giáo, v́
loại bỏ thương mại, đă khiến con người trở nên vô lễ. Có những thân hữu khác lại
biện luận rằng không nên bài xích Khổng Giáo v́ chính nhờ Khổng Giáo mà Việt nam
và Trung Quốc đă được ổn định trong hơn hai ngàn năm. Nhưng ổn định nào? ổn định
trong sự dậm chân tại chỗ, trong sự nghèo khổ, ḱm kẹp và thua kém, có phải là
một ổn định đáng mong muốn không? Chúng ta đă là chúng ta ngày hôm nay chính v́
chúng ta đă là nạn nhân của sự ổn định đó. Mà thực ra có ổn định ǵ đâu. Lịch sử
Trung Hoa và Việt nam, nhất là Việt nam trong hai mươi thế kỷ Khổng Giáo cho đến
thế kỷ 19 đă đấm máu hơn lịch sử của mọi dân tộc khác, với đàn áp thường trực và
nỗi loạn triền miên, khi không có chiến tranh với ngoại bang. Các bạn thử đọc
lại thật kỹ lịch sử nước ta xem trước khi người Pháp đến, chúng ta có bao nhiêu
năm chiến tranh? Các bạn sẽ khám phá ra con số thật kinh khủng và các bạn cũng
sẽ thấy rằng con số những năm chiến đấu chống ngoại xâm chỉ chiếm một tỷ lệ
không đáng kể. Văn hóa Khổng Giáo do tính bất dung và vô nhân đạo của nó đặt xă
hội trong t́nh thế thù địch thường trực. Cái mà chúng ta gọi là sự ổn định thực
ra chỉ là sự tŕ trệ.
Truyền thống nào cũng có sức mạnh quán tính của nó.
Truyền thống càng dài quán lực càng cao. Không có ǵ đáng ngạc nhiên nếu khi
phải từ giă một tập quán chúng ta cảm thấy một mất mát lớn, bởi v́ các lập quán
nằm trong vô thức của chúng ta và gắn bó với cơ thể của chúng ta. Sự nghèo khổ
không phải chỉ là một t́nh trang mà là cả một hệ thống có cả đạo đức, triết lư,
sự thỏa măn và niềm hănh diện của nó. Thoát ra khỏi sự nghèo khổ không phải là
dễ bởi v́ chính những người nghèo cảm thấy nếp sống của họ là đúng đắn, không có
ǵ phải thay đổi. Cũng thế, những lập quán tệ hại đến đâu vẫn có cái tiện nghi
gớm ghiếc, nhưng có thực, của chúng. Những người chống đối hủ tục bó chân phụ nữ
của Trung Hoa không ai khác hơn là chính các phụ nữ Trung Hoa. Nhưng người lúc
ban đầu phản đối mạnh nhất chiếc áo dài duyên đáng hiện nay của phụ nữ Việt nam
không ai khác hơn là chính các phụ nữ Việt nam. Cũng những phụ nữ Việt nam và
Trung Hoa khả kính đă bảo vệ một cách nồng nhiệt nhất tam ṭng, tứ đức - và chữ,
trinh gớm ghiếc - đă đầy đọa họ trong hàng chục thế kỷ.
Đọc lịch sử Việt nam, có một trang mà chúng ta không thể đọc mà không nhỏ lệ.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta đă có hàng chục ngàn người dân rất b́nh
thường, chọn lựa đi tới trước đao phủ thay v́ từ bỏ ḷng tin của ḿnh. Đó là
những người Công Giáo dầu tiên của Việt nam, nạn nhân của chính sách cấm đạo
dưới triều Nguyễn. Dù chia sẻ hay không tin tín ngưỡng của họ, mọi người Việt
nam đều có thể hănh diện về sự dũng cảm đó. Đối đầu với họ, những người hưởng
ứng chính sách cấm đạo và xả thân đi đánh các họ đạo là ai? Đó là những người
Văn Thân, Cần Vương, những người cũng đáng quí nhất của dân tộc, nghĩ rằng ḿnh
đang hy sinh bảo vệ đất nước của cha ông chống lại một cuộc xâm lăng mới và một
tà thuyết mới. Nếu chúng ta, thay v́ là một xă hội nông nghiệp khép kín, là một
dân tộc có truyền thống thương mại và trao đổi th́ phản ứng của chúng ta chắc
chắn sẽ không như thế.
Điều mà chúng ta đang cần là một sự mạnh bạo đoạn tuyệt với một tâm lư lỗi thời
và dám đổi mới, dám từ bỏ đường xưa lối cũ, dám muốn đi tới những chân trời mới,
t́m những thành công thật lớn. Các bạn có thể hỏi tôi, nói lung bung như vậy có
ích lợi ǵ không, có đề nghị cụ thể ǵ không? Có một đề nghị nhỏ rất dễ làm, mà
nếu các bạn cùng làm tôi bảo đảm là chỉ trong ṿng một thế hệ đất nước sẽ rất
khá. Đề nghị đó như thế này: khi một đứa trẻ ra chào đời các bạn hăy hôn và chúc
nó: Con sẽ là doanh nhân, con nhé?.
|