Những người bênh vực
Khổng Giáo thường gắn liền Khổng Giáo với đạo đức. Bài bác Khổng Giáo bị coi là
bài bác đạo đức, nghĩa là vô đạo. Trong một cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh, ông
Phan Kế Bính, một trí thức xuất chúng và cũng có Tây học, đă có công đóng góp
nhiều cho văn hóa Việt nam và có tên đường ở Sài G̣n và Hà Nội, đă viết một câu
chắc nịch: Đạo lư là đạo lư Khổng Mạnh Như vậy phải chăng các dân tộc không biết
tới Khổng Mạnh là những dân tộc không có đạo đức?
Khổng Giáo đề cao một số giá trị mà con người phải cố gắng để đạt được. Nhưng
nếu ta hỏi các nhà nghiên cứu Khổng Giáo những giá trị đó là ǵ th́ các vị này
sẽ rất bối rối. Có vị bảo là trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cũng có vị
bảo đó là nhân, trí, dũng, văn, có vị lại thêm trực (ngay thẳng), tri (hiểu
biết), đạo, cung, kinh, dung (dễ chấp nhận người khác). Đọc Luận Ngữ và sách của
các danh nho khác c̣n phải thêm: đạt, mẫn, tôn, trọng, thuận. Như vậy đủ thấy
đạo lư Khổng Giáo dù đă xuất hiện và ngự trị từ cả hàng ngh́n năm vẫn c̣n rất
mập mờ.
Các giá trị thường được nhắc tơi là trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Các
giá trị này đă được cải thiện dần dần với thời gian và đi vào quần chúng. Lúc
ban đầu chúng chỉ là những giá trị dành cho người quân tử, tức người làm quan
hay học để làm quan, và có ư nghĩa đặc biệt của chúng.
Luân lư Khổng Giáo thường được tóm gọn trong tam cương, ngũ thường. Tam cương là
ba bổn phận của kẻ sĩ: trung với vua, hiếu với cha mẹ, thủy chung với vợ. Tam
cương không được rơ ràng lắm. Cũng có những học giả coi tam cương là quân, sư,
phụ nghĩa là bổn phận đối với vua, với thầy và với cha. Ngũ thường th́ vẫn được
coi là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Khổng Giáo về sau được bồ túc bởi một loạt giá
trị dành cho phụ nữ, đó là tam ṭng, tứ đức.
Tam ṭng là ba sự phục tùng mà người đàn bà phải tuân thủ: lúc c̣n con gái th́
phải phục tùng cha, lấy chồng th́ phải phục tùng chồng, chồng chết th́ phải phục
tùng con (tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử). Tứ đức là bốn đức
tính người đàn bà phải rèn luỵện, đó là công (khéo tay), dung (nhan sắc), ngôn
(ăn nói) và hạnh (hạnh kiểm). Thêm vào đó lại có một giá trị đặc biệt cho người
đàn bà: chữ trinh.
Nếu hiểu hiếu là kính trọng và tận tụy với cha mẹ, nhân là yêu thương người, lễ
là kính trọng người khác trong mọi giao dịch, tín là giữ lời hứa và tôn trọng
mọi cam kết, trí là cố gắng để đạt tới sự hiểu biết rộng th́ dĩ nhiên đó là
những giá trị của mọi xă hội và mọi nền văn minh chứ không phải của riêng Khổng
Giáo. Nếu muốn nói tới các giá trị của Khổng Giáo th́ phải nói tới các giá trị
chỉ có trong Khổng Giáo hay được đặc biệt nhấn mạnh và đề cao trong Khổng Giáo
mà thôi.
Nhưng trước khi bàn về nội dung của Khổng Giáo ta phải nhận định một điểm rất
quan trọng, đó là Khổng Giáo dứt khoát không phải là một đạo lư. Ngôn ngữ Việt
nam và Trung Quốc thường hay lẫn lộn về khái niệm nên có thể nhưng điều sau đây
không được sự nhất trí của nhiều độc giả, nhưng vấn đề là có thực. Triết học
phân biệt đạo lư hay đạo đức (éthique, ethic) và luân lư (morale, moral). Đạo lư
là nhưng giá trị có căn bản triết học, được phân tích rơ ràng, được biện luận
đến nơi đến chốn và sau cùng được chấp nhận như là kết quả của một cố gắng suy
tư. Luân lư, trái lại, chỉ là những điều được áp đặt và trở thành thói quen và
qui luật trong một xă hội. Không thể coi việc người Do Thái cấm ăn thịt heo hay
thịt những con vật mà móng chân sẻ ra, cấm ăn cá không có vẩy là một đạo lư được.
Đó chỉ là một luân lư, nghĩa là một qui luật được luân chuyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác mà thôi.
Khổng Tử và các môn đệ không hề phân tích, biện luận mà chỉ phán ra các mệnh
lệnh mà thôi, nên Khổng Giáo không phải là một đạo lư mà chỉ là một luân lư mà
thôi. Về nội dung các giá trị Khổng Giáo th́ sao?
Trước hết, hệ thống giá trị áp đặt cho phụ nữ rất mọi rợ và vô nhân đạo. Nó hạ
giá người phụ nữ xuống hàng một nô lệ và một vật dụng. Trí tuệ và nhân cách của
người đàn bà không được kể đến. Công, dung, ngôn, hạnh là ǵ? Công chỉ là tài
thêu thùa, may mặc, nấu bếp, nghĩa là tài hầu hạ, phục dịch. Dung không phải là
sắc đẹp mà là cấm không được làm đẹp v́ như thế là ḷe loẹt, lẳng lơ. Ngôn là ăn
nối phải e dè, càng nói ít càng tốt. C̣n Hạnh chỉ là sự chăm chỉ phục tùng, phục
tùng cha mẹ, rồi phục tùng chồng, rồi phục tùng cả con trai ḿnh. ấy là chưa kể
trong gia đ́nh c̣n phải phục tùng cả chú bác, anh chị. Nếu là một người con gái
út trong gia đ́nh nghèo th́ địa vị của một phụ nữ chẳng c̣n ǵ. Rồi lại có cái
chữ trinh cực kỳ đểu cáng. Một người phụ nữ đă có quan hệ t́nh dục với ai bị coi
là mất thân, có t́ vết, mất hết giá trị. Không phải chỉ có phụ nữ b́nh thường mà
ngay cả các công chúa cũng không thoát khỏi sự khống chế tàn tệ của chữ trinh. ở
Việt nam có chuyện Chử Đồng Tử. Anh chàng này nghèo khổ, không có nỗi cái khố,
một hôm một cô công chúa vô t́nh quay màn tắm ngay chỗ anh ta trần truồng nằm
chui dưới cát. Đến khi dội nước th́ lộ ra anh ta. Cô công chúa chỉ lỡ nh́n thấy
anh ta trần truồng mà coi như bị mất trinh, đành phải cưới anh ta làm chồng cho
phải đạo? Văn học Trung Quốc cũng không thiếu những câu chuyện các cô gái v́ vô
t́nh đụng chạm phải một người đàn ông mà phải coi như đă mất trinh, đành phải
lấy người đó làm chồng. Chữ trinh là một sáng tạo dă man của đàn ông để nô lệ
hóa phụ nữ và coi phụ nữ như một đồ chơi độc quyền của họ. Ngày nay chúng ta đều
đồng ư rằng quan niệm của Khổng Giáo về người phụ nữ là rất lạc hậu. Nhưng chúng
ta đă thực sự vất bỏ nó chưa? Tôi chưa chắc, quán tính của chúng ta vẫn c̣n nặng
lắm. Cái tâm lư chồng chúa vợ tôi vẫn c̣n hiện diện rất mạnh, ngay trong cả các
gia đ́nh trí thức sinh sống tại các nước tân tiến phương Tây. Người vợ dù là bác
sĩ, kỹ sư, giáo sư đại học vẫn là nạn nhân của một sự phân công quái gở là lo
chuyện bếp núc, phục dịch trong gia đ́nh trong khi đức ông chồng ung dung hưởng
thụ. Người chồng Việt nam là một trong những người chồng thô bỉ nhất thế giới.
Tôi có lần nói chuyện với một học giả, giáo sư đại học. Ông ta lo lắng v́ con
gái đă lớn và học chung với nhiều bạn trai. Mối lo của ông ta là con gái sẽ giao
du với bạn trai. Tôi nói giao du là chuyện dĩ nhiên chẳng có ǵ đáng sợ, ông ấy
trả lời rằng trai gái bây giờ nó tự do lắm, nó cứ bắt tay nhau một cách tự nhiên,
có khi c̣n hôn nhau khi gặp gỡ hoặc chia tay. Tôi hỏi th́ đă sao?. Và ông ta nỗi
đóa: Nó hôn má, rồi có ngày nó sẽ hôn môi, rồi nó sẽ làm t́nh!. Đối với ông ta
h́nh như nếu con gái ông ta có bồ và hôn môi một chàng trai nào, nhất là lại làm
t́nh th́ không khác ǵ trời sập. Nhưng ngược lại, nếu đứa con trai ông ta cũng
làm những điều ấy th́ lại rất b́nh thường. Đó là một trí thức uyên bác đă sống
tại Pháp gần 40 năm.
Chữ trung và chữ hiếu được định nghĩa từ đời nhà Tống một cách rơ rệt như thế
này: Vua bảo phải chết mà không chịu chết là bất trung, cha bảo phải chết mà
không chết là bất hiếu (quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong,
tử bất vong bất hiếu). Trong Luận Ngữ, Khổng Tử định nghĩa chữ hiếu như sau: cha
c̣n sống th́ phải theo ư cha, cha mất th́ theo việc cha làm, ba năm không được
sửa đổi những ǵ cha đặt ra (phụ tại quan kỳ chí, phụ một quan kỳ hành, tam niên
vô cải ư phụ chi đạo), cha mẹ có lầm lỗi can gián không được cũng không được làm
trái ư, đau ḷng cũng không được giận (sự phụ mẫu cố gián, kiến chí bất ṭng,
hữu kính bất vi, lao nhi bất oán); cha mẹ c̣n sống th́ không được đi xa (phụ mẫu
tại, bất viễn du). Cũng cần lưu ư là chữ hiếu của Khổng Giáo chủ yếu là hiếu với
cha mà thôi, người mẹ rất ít được đề cập tới. Sự kính mến người mẹ ở trong các
xă hội thuộc văn hóa Trung Hoa có thể được nh́n như là một phản ứng dân gian trước
sự tàn nhẫn của Khổng Giáo đối với phụ nữ. Chữ hiếu của Khổng Tử không những
bệnh hoạn mà c̣n bất lương. Khổng Tử bàn luận với Diệp Công về sự ngay thẳng (trực
cũng là một giá trị của Khổng Giáo). Diệp Công nói rằng người ngay thẳng nếu cha
ḿnh đi ăn trộm cũng phải tố giác, Khổng Tử phản đối nói rằng đạo làm con th́ dù
cha có đi ăn trộm cũng phải bênh, như thế mới là trực. Đó là những lời vàng ngọc
của đức thánh Khổng?
Về sau các nho sĩ cũng không làm cho trung và hiếu lành mạnh hơn, trái lại chỉ
thêm vào những điều xằng bậy, thí dụ như, hiếu được định nghĩa phải có con trai.
Có ba tội bất hiếu, tội nặng nhất là không có con trai (bất hiếu hữu tam, vô hậu
chi đại), trung được định nghĩa chỉ được thờ một chủ mà thôi.
Về chữ nhân, Khổng Tử định nghĩa một cách rất lăng nhăng. Nhan Hồi hỏi ông về
nhân, Khổng Tử đáp đó là các đức tính cung (kính cẩn), khoan (khoan dung), mẫn (thông
minh), huệ (may mắn). Như vậy th́ nhân không phải là một giá trị riêng mà chỉ là
tổng hợp năm giá trị khác của Khổng Giáo. Việc coi mẫn và huệ là những thành tố
của nhân cũng đáng ngạc nhiên. Khi Phần Tŕ hỏi th́ ông đáp nhân có nghĩa là yêu
người; đây là lần duy nhất mà Khổng Tử định nghĩa khái niệm nhân một cách gần đúng.
Khi Trọng Cung hỏi th́ ông đáp nhân là ra khỏi cửa phải như gặp thượng khách,
sai dân th́ phải uy nghi như tế lễ lớn, ḿnh không muốn điều ǵ th́ đừng làm cho
người khác (xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục vật
thi ư nhân); ở đây nhân chỉ giản dị là sự đúng đắn. Trong Luận Ngữ, Khổng Tử c̣n
đưa ra một định nghĩa khác về nhân: người trí th́ thích nước, người nhân th́
thích núi, người trí th́ động c̣n người nhân th́ tĩnh (trí giả nhạo thủy, nhân
giả nhạo sơn, trí giả động, nhân giả tĩnh). Định nghĩa quái đản này tuy vậy cũng
nói lên nhân sinh quan của Khổng Tử, ông không có lư tưởng giúp đời, nhân của
ông là tĩnh, nghĩa là bất động, chứ không phải xông pha vào khó khăn để giúp người.
Điều này phù hợp với đạo lập thân mà ông đă dạy người quân tử: nước nguy th́
không nên đến, nước loạn th́ không nên ở, xă hội lành mạnh th́ ra làm quan, xă
hội không lành mạnh th́ rút về ở ẩn. Như vậy chữ nhân của Khổng Tử dứt khoát
không phải là chữ nhân mà chúng ta thường hiểu. Khổng Tử được tôn thờ nên đời
sau đă cố t́nh đem cái ḷng tốt của ḿnh mà hiểu những điều ông nói Khổng Tử đặc
biệt bối rối khi nói về nhân v́ cá nhân ông không có ḷng nhân đạo, ông mạt sát
thậm tệ những người dân cùng khổ và chắc chắn là ông đă từng chủ tŕ nhiều buổi
lễ chôn sống những người vô tội trong những đám tang của những gia đ́nh quí tộc.
Nhân nói về chữ nhân cũng nên dừng lại giây lát để bàn về một chủ nghĩa chính
trị có tên là nhân trị của Khổng Giáo. Đại đa số những người bàn về nhân trị thường
cho đó là một chủ nghĩa nhân bản, lấy sự quí trọng con người làm căn bản. Điều
này hoàn toàn sai. ư niệm nhân được định nghĩa một cách mơ hồ như đoạn trên
không thể là nền tảng cho một thể chế chính trị nào. Chữ nhân trong nhân trị chỉ
có nghĩa là cá nhân mà thôi, nhân trị v́ vậy có nghĩa là để cho một người cai
trị một cách tùy tiện, đối ngược lại với pháp trị có nghĩa là cai trị theo luật
pháp. Nhân trị chỉ giản dị là độc tài cá nhân tuyệt đối; mà về bản chất th́ mọi
chế độ độc tài tuyệt đối đều dă man vô nhân đạo cả nên thuyết nhân trị cũng phải
được xếp vào loại chủ thuyết dă man. Phan Chu Trinh đă phân tích khá rơ ràng về
điểm này. Chữ Hán, nhất là khi đọc theo lối Việt, có nhiều chữ cùng âm mà khác
nghĩa cho nên có những trường hợp ngộ nghĩnh là người Việt hiểu sai hẳn. Tôi
từng được nghe rất nhiều người viện dẫn câu quân tử hợp quan, tiểu nhân hợp đảng
để từ chối tham gia vào các tổ chức chính trị. Đối với họ tổ chức chính trị là
đảng và như vậy những người quân tử cao thượng như họ không thèm gia nhập, đạo
lư Khổng Mạnh đă dạy như vậy. Thực là oan cho Không Mạnh quá. Chữ đảng ở câu này
không có nghĩa là đảng chính trị mà có nghĩa là xóm làng. Quân tử hợp quan, tiểu
nhân hợp đảng có nghĩa là người có danh phận (quân tử) th́ có thể kết hợp với
nhau (hợp quần) c̣n dân chúng (tiểu nhân) th́ chỉ sống chung với nhau trong xóm,
nghĩa là không giao du và kết hợp rộng răi.
Chữ lễ, của Khổng Giáo cũng là một sự hiểu lầm. Đọc Kinh Lễ và Luận Ngữ th́ rất
rơ ràng là lễ chỉ là nghi thức và h́nh thức mà thôi, thí dụ như tế trời th́ phải
mặc áo nào, gặp vua th́ qú như thế nào, lạy bao nhiêu lạy, lúc tiếp chỉ của vua
th́ phải có cũng cách nào, gặp quan lớn phải có thái độ nào, gặp quan nhỏ th́ ra
sao, v.v... Khổng Tử khi đưa khách vào gặp vua th́ giang tay cúi đầu giới thiệu,
rồi cung kính đứng đợi, đến lúc khách quay ra th́ hô lên khách không quay lại
nữa. Đó là lễ của Khổng Giáo, nó không có nghĩa là sự đối xử lịch sự, bặt thiệp
trong xă hội đối với mọi người.
Về lễ chính Khổng Tử đă nói một câu kinh khủng: lễ không kể đến bọn thứ dân (lễ
bất há thứ dân).
Về lễ phép, phải nối rằng người á Đông rất vô lễ, nhất là những dân tộc chịu ảnh
hưởng Khổng Giáo. Người phương Tây đi qua mặt một ai đều xin lỗi, nhận của ai
món đồ nào đều cám ơn, gặp nhau chúc tụng nhau ngày vui, đi th́ nhường bước cho
phụ nữ... Ngay cả giữa các đối thủ với nhau, họ cũng tỏ ra trang nhă. Wellington
đánh bại Napoléon I, nhưng khi Napoléon bị cầm tù và chết trên đảo Sainte Hélène
ông cũng tới đó nghiêng ḿnh kính cẩn. Ngược lại, các tướng Trung Hoa ra trận
th́ chửi nhau, bắt được địch th́ đối xử tàn tệ. Quan Vân Trường được coi là bậc
thánh, nhưng khi Lưu Bị giới thiệu đứa con nuôi là Lưu Phong th́ hỏi Lưu Bị ngay
trước mặt Lưu Phong: Anh đă có con rồi, nuôi giống con tổ ṿ này làm ǵ?; bắt được
tướng địch là Vu Cấm th́ nói: Tao giết mày cũng như giết giống chó ngựa thôi.
Tập quán á Đông đối với kẻ trên, kẻ thắng th́ khúm núm, đối với kẻ dưới, kẻ bại
th́ thô lỗ. Đó không phải là lễ hiểu theo nghĩa đúng và đẹp của nó.
Gần đây có phong trào kêu gọi tái lập phương châm tiên học lề hậu học văn. Những
người chủ trương như vậy hoặc có dụng ư thống trị hoặc không hiểu ư nghĩa thực
sự của tôn chỉ này. Tiên học lễ hậu học văn chỉ có nghĩa là trước hết học nghi
thức và h́nh thức, học lạy, học qú và cúi đầu, nói chung là cúng tế, rồi sau đó
mới học tới kiến thức. Tiên học lễ hậu học văn chỉ có nghĩa là trước học cúng
rồi sau mới học chữ.
Cũng phải hiểu rằng, lễ và nhạc trong Khổng Giáo là những dụng cụ thống trị, mục
đích của chúng là lấy nghi thức và âm thanh để trấn áp tinh thần và khuất phục.
Nhiều độc giả tới đây sẽ phê phán tôi là dựa vào kinh sách để lên án Khổng Giáo,
trong khi Khổng Giáo được thể hiện một cách khác trong cuộc sống. Các vị có lư,
luân lư Khổng Giáo trong đời sống hang ngày không đến nỗi như vậy.
Tại sao? Đó là v́ Khổng Giáo là một hệ thống giá trị khe khất, máy móc và vô
nhân đạo được các vua chúa đem áp đặt vào cuộc sống. Người dân đành phải chấp
nhận và v́ không thể chấp nhận nguyên vẹn nó, người dân đă phản ứng lại bằng
cách thay đổi nội dung của nó để bớt đi phần nào sự khe khắt. Do đó mà Khổng
Giáo đă phần nào được nhân bản hóa. Chữ trung th́ họ không đổi được, nhưng chữ
hiếu đă được hiểu là sự quí trọng và săn sóc cha mẹ. Lễ được hiểu là cách đối xử
đẹp đẽ giữa người và người, nhân cũng mang màu sắc của t́nh thương.
Nhà văn Bá Dương của Trung Quốc, trong một loạt bài tạp văn được tập trung trong
một cuốn sách nhan đề Người Trung Quốc Xấu Xí (Sửu lậu đích Trung Quốc nhân),
gọi văn hóa Khổng Giáo là một hũ tương đặc sệt. Tôi thấy cách gọi này không đúng
hẳn. Tương chỉ làm bởi một chất chính là đậu, ngâm vào muối để cho ră ra và phân
hóa lâu ngày mà thành. Khổng Giáo có đủ thứ, nào là kinh sợ quỉ thần, tuyệt đối
phục tùng nhà vua, rồi lại đến cách ăn ở giữa vợ chồng, cha con, thầy tṛ, cách
học hỏi, tu thân, v.v... Vật chất cũng có, tinh thần cũng có, siêu h́nh cũng có,
luân lư cũng có mà chính trị cũng có. Nói chung là đủ thứ được pha trộn lộn xộn
lâu ngày với nhau, thâm nhập vào nhau và biến chất lẫn nhau. Phải coi đó là một
hũ mắm thập cẩm, thịt có, cá có, tôm có, mà rau cũng có. Mỗi người nếm nói một
cách riêng, người th́ bảo là thịt, người th́ nói là cá, người lại nói là tôm. Ai
cũng đúng cả mà cũng chẳng ai đúng cả. Cho nên có người nói Nho Giáo là hệ thống
chính trị, có người nói đó là một triết lư và cũng có người coi nó là đạo lư.
Điều quan trọng đối với chúng ta là những tập tính mà Khổng Giáo đă tạo ra trong
nếp sống dân gian.
Trước hết là óc thủ cựu. Tôn chỉ thuật nhi bất tác, chỉ lập lại mà không sáng
tạo, đă được các vua chúa áp đặt như một mệnh lệnh tuyệt đối. Với thời gian nó
thành một đạo lư và làm tê liệt cả trí năo các dân tộc theo văn hóa Trung Hoa,
nhất là Trung Quốc và Việt nam. Chúng ta không những không t́m cái mới mà c̣n
thù ghét cái mới.
Thứ hai là óc bất dung, độc quyền lẽ phải. Các vua chúa áp đặt địa vị độc tôn
của Khổng Giáo, rồi dùng bọn nô nho mạt sát mọi tư tưởng khác biệt nhân danh
chính nghĩa vệ đạo. Dần dần chúng ta bỏ mất cả khả năng đối thoại. Chúng ta
không thể thảo luận với nhau một cách b́nh tĩnh và tương kính, hễ khác ư kiến là
phải dùng những lời lẽ hận thù, hằn học, là thấy cần phải tiêu diệt nhau. Chúng
ta coi tranh luận có nghĩa là hạ bệ người trước mặt, làm cho hắn mất uy tín và
bị lên án nếu được. Tôi có thể làm chứng về tinh thần vệ đạo, này bằng kinh
nghiệm cá nhân. Tôi có viết một số bài báo tŕnh bày một số ư kiến cá nhân và đă
nhận được một loạt bài phản bác. Có những bài rất cay nghiệt, nhưng các tác giả
không phản bác được ǵ cả v́ họ chỉ tập trung cố gắng để khiến độc giả ghét tôi
thay v́ tranh luận ư kiến!
Thứ ba là sự sùng bái người xưa một cách bệnh hoạn, hậu quả tổng hợp của sự sùng
bái quỉ thần và chữ hiếu được đẩy quá xa. Yêu quí người xưa là một t́nh cảm tốt
v́ đó là cội nguồn của ta. Tổ tiên đă khổ sở và vất vả để lại cho chúng ta một
di sản, di sản đó dù nhiều hay ít chúng ta cũng là người thừa kế và thụ hưởng.
Nếu không có di sản đó th́ ngày nay chúng ta vẫn c̣n ăn lông ở lỗ. Nhưng cái
bệnh hoạn là ở chỗ ta tin người xưa là đúng và lấy họ làm mẫu mực. Chúng ta
không dám tin rằng thế giới càng ngày càng tiến, chúng ta hiểu biết nhiều và
thông minh hơn cha ông, cũng như con cháu chúng ta sẽ thông minh và hiểu biết
hơn chúng ta.
Thứ tư là lô-gích bạo lực. Nhiều người sẽ phản đối và viện dần vô số câu nói rất
ḥa b́nh và khoan dung. Nhưng quả thực phải nói nền tảng của xă hội Khổng Giáo
là bạo lực. Vua không bao giờ có lỗi th́ làm sao mà thay thế những hôn quân, bạo
chúa? Đạo lư Khổng Mạnh không cho phép chống lại vua, cho nên chỉ có nhưng kẻ
bất chấp đạo lư nổi loạn giết vua mới thay đổi được t́nh thế. Kẻ ấy nếu thua th́
bị coi là giặc, là phản, là vô đạo, nhưng nếu may mắn thắng được th́ các nho sĩ
sẽ qú xuống thần phục và giải thích là mệnh trời đă đổi. Mọi thay đổi chính
quyền đều phải diễn ra qua bạo lực và đổ vỡ chứ không thể diễn ra một cách ḥa
b́nh. Đảng cộng sản Việt nam khi chủ trương chống diễn biến ḥa b́nh đă chỉ lập
lại một tâm lư bạo lực đă sẵn có trong văn hóa Khổng Giáo. Dĩ nhiên thương tật
nặng nề nhất trong tâm lư Trung Quốc và Việt nam vẫn là tâm lư tôi đ̣i, nhẫn
nhục trước độc tài chuyên chế. Như đă nói, chúng ta thừa hưởng tâm lư đó từ nền
văn hóa phù sa. Khổng Tử chịu ảnh hưởng nặng nề của tâm lư đó, đưa nó lên hàng
một đạo lư. Đến lượt Khổng Tử cũng được tôn lên hàng thánh nhân và một mẫu mực.
Mấy chục thế kỷ chuyên chế của quân quyền về mặt chính trị và của Khổng Giáo về
mặt tư tưởng đă biến tâm lư chấp nhận bạo quyền thành một bản năng; ta có thể là
nạn nhân của một chế độ chuyên chính và chống lại chuyên chính ấy, nhưng nếu
thành công ta sẽ áp đặt một thứ chuyên chính khác. Ta chưa dứt khoát được tư
tưởng bởi v́, do di sản Khổng Giáo, ta vẫn c̣n mang mầm độc tài chuyên chính
ngay trong ḷng ḿnh.
|