Chúng ta đều biết nước
Cao Ly là nước nào. Tuy nhiên ngay việc gọi tên nó cũng làm nhiều người phân vân:
Triều Tiên hay Hàn Quốc? Quốc hiệu của nước này đă thay đổi nhiều lần trong lịch
sử và ngay bây giờ cũng không đồng nhất. Từ sau thế chiến II trên bán đảo Cao Ly
có hai nước được thành lập và xung đột với nhau, Cộng Ḥa Dân Chủ Nhân Dân Triều
Tiên tại miền Bắc và Đại Hàn Dân Quốc tại miền Nam. Như vậy miền Bắc tự gọi là
Triều Tiên trong khi miền Nam là Đại Hàn. Tuy vậy khi giao thiệp với các nước
Tây Phương họ lại dịch giống nhau và đều dùng chữ Cao Ly (Korea, Corée). Miền
Bắc là Cộng Ḥa Dân Chủ Nhân Dân Cao Ly (Democratic Peoples Repubhc of Korea,
République Démocratique ét Populaire de Corée), miền Nam là Cộng Ḥa Cao Ly (Republic
of Korea, République de Corée). Vậy khi cần nói đến cả hai miền của đất nước này
la có thể tạm dùng chữ Cao Ly, một danh xưng mà ngôn ngữ Việt nam ít dùng, v́
thường sử dụng thẳng quốc hiệu chính thức của hai chế độ, nghĩa là Triều Tiên
hay Đại Hàn.
Triều Tiên là quốc hiệu được Trung Quốc nh́n nhận từ năm 1391; Cao Ly là tên gọi
của nước này trong năm thế kỷ trước đó; trong khi Hàn là tên một con sông ở
chính giữa nước, và cũng là tên của một dân tộc đă sinh sống tại miền Nam bán
đảo Cao Ly và là nguồn gốc của đa số dân Cao Ly. Một ngày nào đó, nếu nước này
được thống nhất có rất nhiều triển vọng họ sẽ sử dụng tên Cao Ly. Vả lại những
danh xưng Triều Tiên, Đại Hàn ngay từ bây giờ đă không có công dụng quốc tế.
Cao Ly có một lịch sử b́nh thường hơn nước ta. Đất nước này đă thành h́nh do sự
sát nhập và thống nhất nhiều vương quốc nhỏ trên bán đảo. Kể từ thế kỷ 13 lănh
thổ của họ không thay đổi nữa, gồm toàn bộ bán đảo, ngăn cách với Trung Quốc bởi
con sông áp Lục.
Nhiều người Việt nam không am hiểu lịch sử Cao Ly, và do tự ái dân tộc, thường
cho rằng trước đây không lâu nước ta c̣n tiến bộ và hùng mạnh hơn Cao Ly, sự
thua kém của ta chỉ là gần đây mà thôi. Sự thực rất khác. Dân tộc Cao Ly từ lâu
đă tiến bộ hơn ta nhiều về mọi mặt. Họ đă được độc lập trong suốt ḍng lịch sử.
Đôi khi v́ suy yếu hơn nước Trung Hoa họ đă phải nhận vai tṛ chư hầu nhưng vẫn
giữ được nền tự chủ, ít ra là tự trị, trái với Việt nam bị sát nhập làm một phần
của Trung Quốc trong hơn một ngàn năm. Di sản của một ngàn năm nô lệ này vẫn c̣n
để lại trong hồn tính và tư tưởng của chúng ta nhưng tật nguyền mà người Cao Ly,
v́ là một dân tộc độc lập không có. Họ có tinh thần dân tộc cao hơn ta, có óc
sáng tạo hơn ta và đă tiến triển rất sớm. Những tranh vẽ c̣n lại trong các ngôi
mộ từ thế kỷ 4 chứng tỏ một tŕnh độ nghệ thuật rất cao, không thua ǵ người
Trung Hoa. Cũng tại các ngôi mộ này ta thấy các dấu tích về quần áo, kiến trúc,
công nghiệp, giải trí và binh bị rất đáng ngạc nhiên về sự tinh vi. Nếu ngày nay
nước Cao Ly, ít nhất phần phía Nam được gọi là Đại Hàn Dân Quốc, tiến bộ mau
chóng cũng nhờ họ được thừa hưởng một di sản văn hóa rất phong phú và đặc sắc.
Điều đặc sắc nhất là họ đă có một ngôn ngữ Cao Ly riêng, đă để lại nhưng bài thơ
có giá trị triết lư, văn học ngay từ thế kỷ thứ 6. Ngôn ngữ này được sáng chế ra
bằng cách sử dụng những bộ chữ của người Trung Hoa, gần giống như chúng ta đă
dựa vào chữ Hán để chế ra chữ Nôm, nhưng sớm hơn. Ngay từ thế kỷ thứ 7, người
Cao Ly đă biết kỹ thuật in sách. Cho tới nay, theo một số nhà nghiên cứu, bản in
xưa nhất thế giới là bản in một cuốn sách của người Cao Ly. Ngay từ thế kỷ 7, người
Cao Ly đă quan tâm học hỏi các môn toán thiên văn, y học. Năm 717 họ đă lập ra
các học vị tiến sĩ Toán, tiến sĩ Y khoa, tiến sĩ Thiên văn. Trước đó, năm 692 họ
đă có những tiến sĩ Luật. Nếu nh́n lại lịch sử của ta th́ phải thấy ta thua họ
xa lắm và từ lâu rồi. Cho đến đầu thế kỷ 20 ta vẫn chỉ có những cử nhân tiến sĩ
về văn chương mà thôi.
Kinh nghiệm Cao Ly mà tôi muốn nói tôi ở đây là kinh nghiệm về ngôn ngữ. Người
Cao Ly rất hiếu học và cầu tiến. Từ thế kỷ thứ 10 họ say sưa học hỏi văn hóa
Trung Hoa, treo giải thưởng cho những ai t́m được sách của Trung Hoa, rồi sao
chép và phổ biến trong giới ưu tú. Lúc đó nước Trung Hoa lại may mắn gặp những
thời kỳ thịnh trị qua suốt các triều đại Đường, Tống, Nguyễn, Minh. Văn học,
triết lư và chính trị của Trung Hoa đều rất thịnh trong các triều đại này. Trí
thức Cao Ly say mê học hỏi rồi dần dần bỏ quên cả ngôn ngữ gốc của ḿnh. Chữ Hán
với thời gian chiếm vai tṛ của ngôn ngữ chính thức, át hẳn tiếng Cao Ly. Hậu
quả của việc tôn sùng tiếng Trung Hoa là dần dần Cao Ly thua kém Trong Hoa và
suy thoái đi, bởi v́ chữ Hán chỉ phổ biến trong giới thượng lưu mà thôi. Quần
chúng Cao Ly vẫn chỉ sử dụng tiếng Cao Ly bản xứ. V́ ngôn ngữ này không được
phát triển, tŕnh độ văn hóa của quần chúng không vươn lên được.
Sau hơn bốn thế kỷ bỏ rơi ngôn ngữ của chính ḿnh để chạy theo một ngôn ngữ và
một văn hóa nước ngoài, người Cao Ly đă nhận ra sự sút kém của ḿnh. Đầu thế kỷ
15 họ quay trở lại phát triển tiếng Cao Ly và lần này họ làm một phát minh độc đáo:
một tiếng Cao Ly mới xuất hiện với một mẫu tự riêng, gom 26 chữ cái, mỗi chữ cái
diễn tả một âm riêng giống như các ngôn ngữ phương Tây, nhưng các mẫu tự dĩ
nhiên là khác với các mẫu tự la tinh ABC v́ lúc đó Cao Ly chưa biết tới châu Âu.
Cuộc cách mạng văn hóa này đă gặp nhiều chống đối của giới sĩ phu sính chữ Hán,
nhưng nhờ quyết tâm của chính quyền nó đă thành công và nước Cao Ly vươn lên mạnh
mẽ. Cho tới nay, đây vẫn là ngôn ngữ chính thức của nước Cao Ly và đă được phong
phú hóa rất nhiều để trở thành một ngôn ngữ đầy đủ khả năng để chuyên chở mọi kiến
thức văn học, khoa học kỹ thuật.
Vào đầu năm 1998, một bài báo của một thân hữu được đăng trên tờ Cánh én tại Đức
và Thông Luận đă phê phán một bài báo khác của tôi. Tác giả phê phán tôi cực đoan
trong cách nhận định văn hóa và lịch sử dân tộc và đưa ra nhận định là h́nh như
những người hoạt động chính trị Việt nam đều có chung nhau một điểm là hay chọn
lựa thái độ cực đoan. Đề cập tới hai khuôn mặt chính trị Việt nam hồi đầu thế
kỷ, tác giả nhận định Phan Bội Châu đă cực đoan trong thái đơ thân Nhật, một
chọn lựa mà nếu thành công vào lúc đó sẽ là một thảm kịch cho dân tộc Việt nam;
Phan Chu Trinh đă quá khích trong cố gắng cỗ vơ dùng chữ quốc ngữ thay chữ Nho
với hậu quả là người Việt nam đă mất mát rất lớn v́ bị đoạn tuyệt với văn hóa
Trung Hoa, văn hóa gốc của ḿnh. Tác giả viện dẫn trường hợp Cao Ly để nói rằng
người Cao Ly, cũng như người Nhật, đă tiến mạnh nhờ tiếp tục sử dụng tiếng Hán.
Tôi chia sẻ với bạn đó nhận định về Phan Bội Châu nhưng không thể đồng ư về trường
hợp Phan Chu Trinh và chữ quốc ngữ, nhất là về thí dụ Cao Ly. Cao Ly đă sùng ái
chữ Hán trong ṿng bốn thế kỷ nhưng vẫn có ngôn ngữ riêng của họ và từ năm thế
kỷ gần đây ngôn ngữ riêng là ngôn ngữ chính thức chứ không phải chữ Hán. Họ tiến
nhờ ngôn ngữ riêng chứ không phải nhờ chữ Hán mà họ chỉ sử dụng như một ngoại
ngữ. Theo chỗ tôi biết, trong tiếng Cao Ly hiện nay chỉ có khoảng hai ngàn chữ
có gốc chữ Hán mà thôi, nghĩa là rất ít so với sự hiện diện của chữ Hán trong tiếng
Việt. Các chữ Hán vay mượn này cũng đă được Cao Ly hóa, nghĩa là viết bằng mẫu
tự Cao Ly, chẳng khác ǵ ta viết chữ gốc Hán như ân nhân bằng mẫu tự la tinh. Sử
dụng ngôn ngữ của riêng ḿnh là một bắt buộc đối với mọi dân tộc muốn trường tồn.
Suy nghĩ và diễn tả là hai hành động cơ bản nhất của loài người. Chúng ta suy
nghĩ và diễn tả bằng một ngôn ngữ, và chúng ta chỉ thoải mái và chỉ thành công
tối đa trong ngôn ngữ của chính ḿnh. Sử dụng một ngoại ngữ chúng ta sẽ bị giới
hạn trong cả suy nghĩ lẫn diễn đạt, chúng ta sẽ thua kém. Đó mới chỉ là nói về
giới trí thức. Đối với cộng đồng dân tộc việc sử dụng ngoại ngữ thay v́ quốc ngữ
c̣n nguy hiểm gấp bội. Quần chúng chỉ có thể dùng ngôn ngữ của ḿnh chứ không
thể thấu hiểu một ngoại ngữ. Bỏ rơi quốc ngữ là bỏ rơi đại bộ phận dân tộc và chấp
nhận vĩnh viên số phận nhược tiểu, trừ trường hợp dám thẳng thắn xóa bỏ văn hóa
của ḿnh để chấp nhận một văn hóa mới. Nhưng cố gắng xóa bỏ văn hóa của chính
ḿnh này sẽ đ̣i hỏi nhiều thế kỷ và tới nay chưa dân tộc nào làm được. Nước Việt
nam của chúng ta đă thử nghiệm trong mười thế kỷ Bắc thuộc và hơn bốn thế kỷ độc
lập sau đó nhưng đă không thành công.
Đất nước ta đang mở ra với thế giới vào giữa lúc mà tiếng Anh đang thời thượng.
Chẳng bao lâu một cuộc thảo luận lớn sẽ diễn ra: nên đầu tư tích cực vào tiếng
Anh để hội nhập mau chóng vào sinh hoạt thế giới hay nên dồn một cố gắng vĩ đại
vào việc phát triển tiếng và cải tiến tiếng Việt? Nhiều người lư luận rằng với
tiếng Anh chúng ta sẽ hiểu được cả thế giới và ngược lại cũng được cả thế giới
hiểu. Tiếng Việt có rất nhiều trở ngại: tiếng đơn âm, khó kết hợp và biến hóa để
tạo ra những từ mới, diễn tả những ư niệm mới; dấu phức lạp, khó dùng trong
truyền thông và tin học; hơn nữa lại không được thế giới biết đến, đằng nào cũng
vẫn phải dùng tiếng Anh trong các giao dịch quốc tế.
Mặc dầu tất cả những trở ngại rất lớn và có thực đó, lập trường của tôi rất rơ
rệt: phải dùng tiếng Việt và phải đầu tư vào tiếng Việt. Lập trường của tôi
không xuất phát từ một tinh thần quốc gia mà từ một nhận định thực tiễn: người
Việt chỉ thành công qua tiếng Việt mà thôi. Chúng ta sẽ không có hy vọng nào để
cả nước thông thạo tiếng Anh, mà có thông thạo đi nữa th́ cũng không bao giờ
thông thạo được bằng người Anh hay người Mỹ. Chúng ta sẽ học tiếng Anh, nhưng đó
sẽ chỉ là ngôn ngữ giao dịch với bên ngoài. Tiếng Việt sẽ vẫn là ngôn ngữ để học
hỏi, để suy nghĩ, để giáo dục, huấn luỵện, đào tạo và trao đổi giữa chúng ta. Đó
là chọn lựa duy nhất của chúng ta. Chúng ta đă có kinh nghiệm chữ Hán và chữ Nôm.
Chúng ta đă chỉ thực sự tiến bộ khi chữ Nôm trưởng thành. Dân tộc Cao Ly cũng đă
có một kinh nghiệm tương tự về ngôn ngữ của họ sau khi đă sùng ái chữ Hán. Các
dân tộc châu Âu cũng đă chỉ vươn lên nhờ biết sáng tạo và cải tiến tiếng mẹ đẻ
của họ để thay thế cho tiếng La Tinh.
Chúng ta cũng có một kinh nghiệm ngược lại đầy ư nghĩa. Tỉnh Québec của Canada
gom đại đa số là người gốc Pháp, và họ có đủ điều kiện để phát triển tiếng Pháp,
nhưng họ không phải là một phần của nước Pháp cho nên mặc dầu có phương tiện dồi
dào và có ư chí mạnh mẽ giữ ǵn tiếng Phấp, họ đă không sáng tác được ǵ đáng kể
bằng tiếng Pháp. Nước Việt nam ta với điều kiện địa lư và nhân văn có triển vọng
để trở thành một nước lớn và giàu mạnh, nhưng triển vọng đó sẽ chỉ được thực
hiện với tiếng Việt. Vậy chúng ta chỉ có một chọn lựa: xây dựng, cải tiến và
phong phú hóa tiếng Việt.
|