Người Việt nam nào h́nh như cũng biết câu ca dao Nước non
ngh́n dặm ra đi. Cụm từ nước non ngh́n dặm cũng đă là đầu đề của nhiều tác
phẩm, và được dùng trong vô số bài hát, bài thơ. Nó đă làm cho nhiều người
nghĩ đất nước ta rộng răi, bao la. Sự thực th́ chúng ta rất thiếu đất. Với
78 triệu người (năm 2000) trên một diện tích 330.000 km2, nghĩa là 237 người
trên một kilômét vuông, chúng ta là một trong những nước có mật độ cao ngất,
gần gấp đôi Trung Quốc (120 người / km2) và xấp xỉ bằng ấn-độ (270 người /
km2), hai nước được coi là có nạn nhân măn trầm trọng.
Nhưng không phải chỉ có thế. T́nh trạng thiếu đất thật ra c̣n trầm trọng hơn
nhiều. Nếu núi đă giúp ta giữ nước, th́ núi và đồi cũng đă chiếm mất của ta
ba phần tư lănh thổ. Tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ, đồi và núi chiếm hơn 80%
lănh thổ. Tỷ lệ đất đai canh tác được của ta không tới 25 %. Nếu trừ đi
thành phố, nhà cửa, đường sá sông ng̣i th́ diện tích c̣n lại để trồng lúa
tối đa của ta không quá 7 triệu héc-ta.
Nói đến thiếu đất người ta nghĩ ngay đến hạn chế sinh đẻ. Chính quyền hiện
nay theo đuổi một chính sách hạn chế sinh đẻ vừa rời rạc vừa hung bạo.
Trong truyện ngắn nỗi tiếng Tướng về hưu, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp kể chuyện
một vị tướng cộng sản về hưu đă phải bỏ ra đi t́m lại đơn vị cũ của ḿnh đề
rồi thiệt mạng v́ không thể chịu đựng được cảnh cô con dâu, một bác sĩ sản
khoa, đem những thai nhi đă bị phá về nhà làm thức ăn nuôi chó béc-giê kỹ
nghệ. Trong cuộc Hội Luận Dân Chủ Đa Nguyên tháng 10-1990, nhà nghiên cứu
Đinh Trọng Hiếu, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Pháp, vừa từ Việt nam
sang sau một chuyến nghiên cứu dài ba tháng về đời sống nông thôn, đă lên
diễn đàn mô tả lại cảnh mà ông đă nh́n thấy, cảnh ba bốn phụ nữ bị bắt buộc
phá thai trong các trạm y tế. Họ nằm trần truồng bên nhau, dạng cẳng cố trục
xuất thai nhi ra, sau khi đă nhận thuốc phá thai. V́ thiếu phương tiện, việc
phá thai được phối hợp giữa thuốc và các biện pháp tay chân. Đinh Trọng Hiếu
vừa kể vừa khóc.
Đọc báo trong nước, người ta cũng vẫn thường gặp những bài nói về các cán
bộ, đảng viên bị phê b́nh, hay có khi bị kỷ luật v́ có tới ba con.
Nhưng mặc dầu vậy, dân số nước ta vẫn tiếp tục gia tăng xấp xỉ 2%, tức
khoảng một triệu rưỡi người mỗi năm. Các biện pháp hạn chế dân số dă man đă
chỉ làm xuống cấp con người chứ không ngăn chặn được nạn nhân măn. Có lẽ v́
con người trở thành rẻ rúng mà chính quyền không c̣n quan tâm tới sức khỏe.
Sách báo không thầy đăng (hay có đăng mà tôi không đọc được?) tỷ lệ người
chết hàng năm. Tôi t́m được một cuốn sách địa lư trung học (Địa lư lớp 9 -
Nguyễn Trọng Điều, Nhà xuất bản Giáo Dục, 1989) hai con số: tỷ lệ người chết
là 6,3 phần ngàn năm 1979 và 6,95 phần ngàn năm 1986. Như thế có nghĩa là
trong ṿng 7 năm tỷ lệ người chết đă tăng lên 10%. Năm 1986 là năm bắt đầu
chính sách mở cửa theo qui luật kinh tế thị trường. Từ đó hệ thống y tế của
nước ta bị bỏ rơi và xuống cấp không ngừng. Hiện nay, năm 2000, y tế của ta
có thể nói là đă sụp đổ hoàn toàn. Theo thống kê của nhà nước, số trẻ em
chết trước khi được một tuổi đă tăng 10% trong năm 1998.
Hạn chế đà gia tăng dân số chắc chắn phải là ưu tư lớn của bất cứ một chính
quyền Việt nam nào. Nhưng trước hết phải nh́n vấn đề một cách đúng đắn, phải
nhận định rằng vấn đề sinh đẻ nhiều trước hết là một vấn đề văn hóa, xă hội
và nhân sinh quan chứ không phải là một vấn đề thuần túy kinh tế, và do đó
không thể giải quyết bằng những quyết định hành chánh, duy ư chí chính quyền
cộng sản đă có một thái độ thiếu lương thiện trên vấn đề này. Trước năm
1975, đảng cộng sản hoàn toàn không đặt ra vấn đề hạn chế sinh đẻ. Lúc đi
cải tạo sau ngày 30-4-1975, tôi c̣n được nghe một bài học tập lên án gay gắt
ngụy quyền Sài g̣n là đă tiếp tay cho chính sách diệt chủng bằng cách hạn
chế sinh đẻ. Chỉ sau Đại hội IV, năm 1976, vấn đề mới đặt ra. Và sau đó
những dụng cụ và thuốc ngừa thai mới được khuyến khích, cùng với những quyết
định hành chánh rất thô bạo.
Cũng cần phải phân biệt hai vấn đề hạn chế sinh đẻ và giải quyết t́nh trạng
dân số cao. Có lẽ tất cả vấn đề là ở chỗ đó. Nếu chỉ hạn chế sự gia tăng dân
số mà thôi th́ phải nói rằng đó là một cố gắng vô ích ngay cả nếu thực hiện
được. Bởi v́ ngay bây giờ với 78 triệu dân, chúng ta đă tuyệt vọng rồi nếu
vẫn cứ là một nước nông nghiệp. Tỷ lệ đất canh tác của ta hiện nay là 10
người một héc-ta. Với tỷ lệ này th́ dù có tăng năng suất tối đa và dù có
luôn luôn mưa thuận gió ḥa, chúng ta vẫn sẽ là một nước nghèo khổ
Vấn đề thực sự đề giải quyết nạn đất hẹp người đông là phải thay đổi chức
năng của đất nước từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp. Trong
dài hạn, nông nghiệp của Việt nam chỉ có thể đảm bảo đời sống xứng đáng cho
khoảng 10 triệu người, trong khi chúng ta sắp có 80 triệu dân. Phần c̣n lại
phải chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Cuộc chuyển hóa này sẽ phải được
coi là cố gắng vĩ đại nhất v́ từ ngày lập quốc và sẽ chỉ có thể giải quyết
bằng một cố gắng liên tục trong nhiều thập niên. Ngay từ bây giờ những người
làm chính sách phải luôn luôn có trong đầu viễn ảnh này.
Cho tới nay, chính quyền cộng sản luôn luôn có một chính sách cư trú mâu
thuẫn. Đại hội IV của đảng cộng sản (năm 1976) chủ trương tiến lên sản xuất
công nghiệp lớn xă hội chủ nghĩa nhưng đồng thời đảng lại thi hành chính
sách đuổi dân ra khỏi thành phố, đưa dân về nông thôn hay đi các vùng kinh
tế mới. Cho đến ngay bây giờ chuyển hộ khẩu về miền quê vẫn là chuyện dễ
đàng, ngược lại chuyền hộ khẩu từ nông thôn ra thành phố vẫn là chuyện đội
đá vá trời.
Nông thôn Việt nam từ lâu đă dư người rồi và càng ngày càng dư người hơn
nữa. Thêm người ở nông thôn chỉ có tác dụng chuyển sự nghèo khổ từ thành thị
về nông thôn, cho khuất mắt các vị lănh đạo chứ không giải quyết được ǵ cả.
Không những không giải quyết được ǵ cả mà c̣n làm giảm năng suất nông
nghiệp. Đông người quá th́ không thể cơ giới hóa và c̣n phải hạ thấp mức cơ
giới hóa đề sử dụng lao động dư thừa, mà đă không cơ giới hóa th́ năng suất
dĩ nhiên là thấp. Năng suất trung b́nh của ngành trồng lúa chỉ là 3,5 tấn
hàng năm cho một héc-ta trong khi ruộng đất Việt nam có thể đạt năng suất 6
tấn. |